Khóa tu Tiếp Hiện dành cho người nói tiếng Việt tại Viện Phật Học EIAB – Đức 26.06-30.06.2024
Tăng thân BX thương yêu!
Hai bạn hỏi mình về những cảm tưởng có được trong khóa tu dành cho Tiếp Hiện người Việt vừa qua trên EIAB? Biết bắt đầu từ đâu bây giờ? Thôi thì cứ nhớ đến đâu, mình kể đến đó bạn nhé!
Hai bạn biết không: được gặp lại những bạn đạo thân thương từ xưa nên mình được hưởng nhiều phút giây hạnh phúc đã đành, nay lại được làm quen thêm những người mới đến từ những tăng thân xa xôi như Berlin, Paris và tận Na Uy nữa cơ! Tuy tuổi tác chênh lệch và hoàn cảnh sống khác nhau, nhưng hầu như ai trong khóa tu kỳ này cũng mang một tâm trạng giống nhau: khoác chiếc áo Tiếp Hiện màu nâu sòng trên người, ta nên và có thể làm gì được để tiếp tục một trong những đứa con tinh thần lâu đời nhất của Thầy? Bọn mình thật may mắn được sư cô Định Nghiêm là người hướng dẫn khóa tu. Bạn biết không, sư cô “tâm lý” lắm nhé! Cô hỏi đại chúng có muốn cùng xem lại với nhau cuốn phim “A Cloud Never Dies” hay không? Tuy hầu hết mọi người đã xem qua, nhưng ai nấy vui vẻ đồng ý cùng nhau xem lại. Sư cô cũng nhắc nhở đại chúng lúc xem phim nhớ để ý, ghi nhớ đến những chi tiết xoay quanh bối cảnh dòng tu Tiếp Hiện được thành lập.
Bạn biết đó, ai trong tụi mình cũng thuộc lòng câu nói: “Những người Tiếp Hiện cư sĩ là cánh tay nối dài của tứ chúng để dang ra cho xã hội. Nhưng mấy ai hiểu được thật sự “nối dài” là nối dài cái gì? Qua cuốn phim và những chia sẻ của sư cô Định Nghiêm, mình hiểu được ra rằng: Tiếp Hiện đã ra đời trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam đang hồi khóc liệt nhất. Từ lâu, Thầy đã ấp ủ ước mơ đưa “Đạo Phật đi vào cuộc đời”, (chứ không muốn Đạo Phật dậm chân ở lễ bái, cầu siêu, cúng vong!) Cuộc nội chiến phi lý giữa hai miền Nam-Bắc đã và đang trút bao đau thương, hận thù lên cho hàng triệu người dân hiền lành, chất phác; Nhà cửa tan hoang, ruộng đồng khô cháy, con mất cha, vợ mất chồng, gia đình ly tán, làng mạc tiêu điều … Vì vậy Thầy đứng ra sáng lập Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, đào tạo rồi gởi những thanh niên, thiếu nữ có tâm huyết muốn xoa dịu những đau thương mất mát của đồng bào. Họ về miền quê, cùng sống và chung tay giúp đồng bào dựng lại nơi ăn, chốn ở, bệnh xá và trường học cho các em. Thầy nhận ra rằng đạo Bụt có thể làm chỗ dựa tâm linh vững chãi và bền bỉ nhất cho các tác viên ngày đêm phải đối mặt với căm thù và bạo động. Hơn ai hết, các em ấy, những người trẻ dấn thân, làm công tác xã hội, rất cần được chăm sóc để nuôi lớn tình thương cho thế nhân và từ bi với kẻ thù.
Phương Bối Am tại núi rừng Đại Lão đã ra đời chính từ những kinh nghiệm cần có một nơi để được về nương náu, chữa lành những vết thương do cuộc đời bên ngoài gây ra khó tránh được, để giữ nóng hay khơi dậy lại ngọn lửa chí nguyện độ đời. Dòng tu Tiếp Hiện được thành lập cũng trong tinh thần đó.
Hai bạn biết không, chữ “Tiếp Hiện” Thầy đặt cho dòng tu mang ý nghĩa sâu sắc lắm; chưa có một chữ ngoại quốc nào khả dĩ chuyển tải được hết ý nghĩa bao trùm, phổ quát của hai chữ ấy. Hai bạn tìm đọc lại bài ghi âm của Thầy giảng về ý nghĩa của 2 chữ này nhé!
Đối với Thầy, đạo Bụt phải nhập thế, tức “đi vào cuộc đời”. Đạo Bụt có mặt VÌ CUỘC ĐỜI, chứ không phải vì một tu viện nào mà ta nên ra sức gầy dựng. Tu viện chỉ giúp ta chuẩn bị đi vào cuộc đời thôi! Vì sứ mạng đó, giới xuất sĩ rất cần giới cư sĩ dấn thân, cần các giáo thọ giỏi để cùng nhau thực hiện chí nguyện độ đời.
Vậy bây giờ chúng ta có thể hỏi nhau: chúng ta đang sống ở một nơi quá đỗi bình an, đâu có bom đạn nào tàn phá làng mạc, ruộng nương nữa đâu? Vậy Tiếp Hiện chúng ta làm gì???
Xin thưa là Tiếp Hiện cư sĩ chúng ta trước nhất phải tập sống sao cho thật hạnh phúc, (“Hiện pháp lạc trú”!), khoan nói đến tổ chức khóa tu, xây dựng tăng thân hay những dự án to tác nào khác! Bạn đã ăn cơm trong chánh niệm rốt ráo chưa? Bạn có hay dãi đãi bỏ những buổi thiền hành với đại chúng không? Sư cô Định Nghiêm nhắc đi nhắc lại: trong mấy mươi năm, Thầy chưa bao giờ bỏ một buổi thiền hành nào, bất kể trời mưa gió hay tuyết giá. Thiền hành “kết hợp hơi thở với bước chân” là pháp môn Thầy tự tìm ra, ứng dụng trên chính bản thân để tự chữa lành cho chính mình trong giai đoạn khó khăn nhất cuộc đời. (Nói thật với hai bạn, mình ngồi dưới nghe, nghĩ lại mà mắc cở ghê lắm vì mình từng bỏ nhiều buổi thiền hành do làm biếng và chưa nắm được hết tinh tuý của pháp môn này! Sau buổi pháp thoại chia sẻ đó, mình đã quyết tâm từ nay không bao giờ bỏ một buổi thiền hành nào nữa !)
Sư cô cũng nhắc lại: chính Thầy cũng nhắn nhủ rằng 14 giới TH cũng cần tân tu vì trong đó nói rất nhiều về khổ đau của thế gian, nhưng còn những khổ đau chính trong ta thì sao? Trong 45 năm hoằng hoá, Bụt cũng tu chỉnh, sửa đổi giới luật, phát triển pháp môn mới, vậy thì Làng Mai chúng ta cũng phải làm được, có vậy chúng ta mới đầy được bánh xe Pháp đi tới.Ngày thứ ba, bọn mình được nghe những chia sẻ từ sư cô Định Nghiêm về Thầy. Câu chuyện nào cũng lý thú và cảm động lắm vì đó là những mẩu chuyện về thường ngày, chân tình và sâu sắc. Thí dụ: đối với cô, cái “dễ thương” nhất của Thầy là lòng biết ơn đệ tử. Thầy luôn cho ta biết rằng Làng Mai không phải là công trình của một mình Thầy, mà là của tất cả 4 chúng kết hợp với nhau cùng làm việc, hài hòa, thương yêu, muốn nâng đỡ nhau chứ không phải để tranh chức này hay tiếng tăm nọ. Đúng rồi, mình nhớ có Sư cô nào đó có lần kể: Thầy năm nào cũng cho tổ chức Hội Hoa Thủy Tiên mà trong mắt Cô lúc đó lễ hội ấy đâu có gì đặc biệt, lại hơi mất thì giờ! Mãi sau Cô mới hiểu Thầy lại thấy làm được điều ấy là thiêng liêng và quan trọng nhất; Thầy trò chỉ cần có thì giờ để ngồi bên nhau, cùng ngắm hoa thủy tiên nở rộ, là vui rồi. Hình như “có mặt cho nhau” là điều làm Thầy hạnh phúc nhất.
Mình hơi ngạc nhiên khi nghe sư cô tâm sự rằng tuy viết rất nhiều sách và luôn chính tay nhuận bút tới 6-7 lần (Sách “Trái Tim Của Bụt” và “Đường Xưa Mây Trắng” là một trong những cuốn tâm đắc nhất của Thầy), nhưng Thầy vẫn luôn nói “việc viết sách không phải là việc quan trọng nhất cho Thầy mà là Thầy được sống với đệ tử của mình”! Bây giờ mình hiểu rõ hơn tại sao Thầy đã mượn một câu nói nổi tiếng khác sửa thành “Không có gì quý hơn tình huynh đệ”.
Mình còn được biết “Kinh Bát Đại Nhân Giác” là một trong những kinh đầu tiên Thầy giảng dậy tại Làng và nên là kinh gối đầu giường cho mọi người tu sĩ. Kinh này đã giúp Thầy qua được những giai đoạn khó khăn năm 1979, khi làn sóng vượt biên tị nạn với nhiều đau thương, mất mát đang dâng cao. Bạn thấy đó, Thầy thấy chiến tranh chấm dứt rồi, nhưng khổ đau vẫn còn quá nhiều! Làng Mai cần mở những khóa tu cũng như gầy dựng những tu viện lớn tại khắp nơi trên thế giới cũng là do động lực muốn xoa dịu khổ đau cho muôn người.
Có một chi tiết này rất lý thú: trong khóa An Cư Kiết Đông đầu tiên 88/89, Thầy dạy về “Duy Thức Học”, An Cư Kiết Đông 92/93 lại dạy “52 bài tụng Duy Biểu”, vì Thầy luôn có những khám phá mới mẻ và nhận ra Duy Biểu Học rất cần thiết cho tâm lý trị liệu, một bộ môn quan trọng trong thế kỷ 21!
Đó là nội dung những buổi pháp thoại chính thức. Nhưng đúng là: không phải những buổi pháp thoại mới làm nên linh hồn của khóa tu đặc biệt này. Mà là sự dịu dàng, khéo léo của sư cô Định Nghiêm; sự có mặt từ ái, hiền hòa của vị Ni trưởng, sư cô Chân Không (đứng dậy từ xe lăn, bước từng bước khó khăn lên bục, hát và chia sẻ hoàn cảnh sáng tác những bài Thiền ca …); không khí phấn kích, sốt sắng, nhưng rất kỷ luật của đại chúng, rộng mở lòng chia sẻ, trao đổi những ưu tư hay mong ước cho tương lai của Tiếp Hiện trong buổi pháp đàm; những câu trả lời chân tình và sâu sắc từ các thầy, các sư cô trong buổi vấn đáp; các câu chuyện nho nhỏ được kể trong buổi Thiền trà đúng kiểu “à la mode de Village des Pruniers“ … tất cả đã cho mình những giây phút thật an bình, hạnh phúc, cũng như đôi lúc sụt sùi khóc vì cảm động! Viết lại hết xuống đây, mình e rằng dài quá. Thôi để kết thúc, mình xin nhắc lại điều gây ấn tượng nhất cho mình là lời nhắn nhủ của các thầy, các sư cô: Trên đường tu, ta phải biết kiên nhẫn, và nhớ là đừng có đợi chuyển hóa hết khổ đau mình mới có được hạnh phúc, vì hạnh phúc và khổ đau là hai mặt của một việc. Khi muốn giữ nét đẹp văn hóa trong ta thì với sự thực tập kiên trì và tinh tấn, ta sẽ có đời sống văn hóa đó và ta cũng sẽ lan tỏa được cái đẹp trong ta nhờ sự thực tập của chính bản thân. Bạn và mình đã có đường đi rồi, ta còn sợ và ngại ngùng gì nữa, phải không bạn?
Thương mến, Chân Đức Từ Ân.
*”Tăng Thân Bánh Xèo” là tên không chính thức của nhóm 3 chị em chúng tôi, được thành lập sau khi 3 chúng tôi hợp sức đổ bánh xèo cho đại chúng của học viện EIAB trong một khoá tu nhỏ trong mùa dịch Covid 19. Ba năm sau, 3 chị em đều đồng lòng xin thọ giới TH và tiếp tục sinh hoạt với tăng thân gần nhà.
Hành trình du hóa của thiền sư Thích Nhất Hạnh (1985-2000) – Tập 1
Tăng thân Làng Mai biên soạn
Sư cô Chân Định Nghiêm giới thiệu
Tập 1 của quyển sách này tường thuật lại những chuyến đi giảng dạy của Thầy từ năm 1985 đến năm 2000. Đây là một cơ hội cho chúng ta được tháp tùng theo Thầy đi gieo hạt giống từ buổi ban sơ.
Tôi đã đọc Ân Tình của thầy Pháp Nguyện nhiều lần và mỗi lần đọc lại cho tôi mỗi cảm xúc khác nhau. Có những bài viết rất cảm động mà tôi không cầm được nước mắt. Mỗi bài viết là một câu chuyện và mỗi câu chuyện là một nguồn cảm hứng giúp cho người đọc hiểu thêm về sự lợi lạc của việc tu học và hành trì…
Một loại dược liệu nuôi sống tâm hồn người đệ tử nhất mực quý kính Thầy mình, dù hôm nay, tác giả đã 86 xuân xanh, và Thầy đã rong chơi phương ngoại hơn 100 ngày lại biểu sinh giữa đám mây ngàn bay thong dong!
Một ngày chúng ta cống hiến cho sự tu học là một ngày rất quí báu. Chúng ta đã có một ngày trọn vẹn để công phu, vậy tại sao chúng ta coi thường ngày tu tập của chúng ta! Ta được tặng hai mươi bốn giờ đồng hồ để sống, để tu tập, tại sao ta không sống, không làm hết mình. Ta phải nắm lấy quyền tự chủ, phải tổ chức ngày thực tập của mình trở thành một ngày có giá trị, trong đó mỗi giây phút của đời sống có thể làm lớn lên tình thương và sự hiểu biết trong ta. Đó là công phu.
Buổi sáng thức dậy tôi nghĩ ngay tới những người thương. Những người thương có hạnh phúc không? Tôi thì hạnh phúc lắm! Vì vậy tôi muốn chia sẻ hạnh phúc của tôi với những người thương. Hạnh phúc đó, theo tôi thì tuy rất đơn sơ nhưng cũng làm cho mình vui được cả ngày.
Hôm nay hoa trà màu hồng cánh sen trước nhà đã nở những đóa thật tươi mát. Tôi không chịu nổi lôi máy ra chụp vài tấm hình gởi cho những người thương. Có những cái đã nở to trông rất là khoa trương, có những cái mới vừa he hé, có những cái còn búp nhưng đã tròn ủn ỉn và cũng có những cái còn là búp bé tí teo. Những cái búp đó đã nằm chờ đợi từ mùa Đông năm ngoái rồi đó. Nhưng chúng không nở một lần đâu, chúng nở từ từ cho chúng ta được hạnh phúc lâu chừng nào tốt chừng đó. Chúng dễ thương quá phải không những người thương? Tôi thấy biết ơn cây hoa trà quá chừng chừng!
Hương của ngày xưa
Sáng hôm nay đẹp quá phải không những người thương? Tôi vừa đến góc“trà thất“ định pha trà buổi sáng thì đã ngửi được một mùi hương thơm thật dịu dàng quen thuộc. Tự nhiên trong lòng tôi vui hẳn lên, tôi biết đó là hương của hoa bưởi, hoa cam. Đó là hương của tuổi thơ, hương của ngày xưa hay nói theo văn phong cải lương là“mùi của quê hương“ .
Tôi nhìn lên thì thấy chậu quất (tiếng người miền nam là cây tắc) gần tủ trà đã nở hai đóa hoa trắng nhỏ xíu. Hai cái hoa nhỏ xíu đó đã đủ làm thơm cả cái góc của“trà thất“ rồi.
Sáng nay tôi ngồi uống trà trong hương thơm của hoa quất. Tôi mời những người thương cùng ngồi uống trà với tôi và thưởng thức“ hương của ngày xưa“ đó nha.
Đi dạo
Buổi sáng trời nắng đẹp và ấm. Thấy ngồi trong nhà thì uổng quá tôi mặc áo, quàng khăn, đi dạo“Bunter Garten“. Tôi vừa đi vừa nhớ tới những người thương. Mình cũng thường đi với nhau trong công viên này đây. Tôi đã có chủ ý đem theo máy để chụp vài tấm ánh gởi tới những người thương.“Bunter garten“ chưa“bunt“ gì cả, phần lớn những cây to vẫn còn trơ trụi, nhưng dấu hiệu của mùa Xuân đã rõ ràng lắm rồi.
Forsythia đã nở vàng rực, vài loại anh đào cũng đã nở rồi. À, có ai biết Forsythia tên tiếng Việt là gì không? Tôi tìm trong tự điển thì thấy đề là cây“liên kiều“, có thể dùng làm thuốc theo Đông y. Nhưng tôi lại gọi Forsythia là“phi mai“, tại vì Forsythia không phải là mai nhưng có thể thay thế cho mai trong những ngày Tết VN ở Tây phương.
Bi quan
Thường thường thì sáng nào thức dậy tôi cũng cảm thấy vui vẻ, lạc quan, cho dù tới tuổi này rồi thì thúc dậy là thấy đau nhức cả người. Vừa ngồi dậy, kéo cửa sổ lên là tôi đã thấy ánh bình mình xuất hiện ngay trước mặt rồi.
Nhưng cũng có lúc tôi thấy không hứng thú gì cả. Tôi không muốn làm gì hết. Không phải tại vì tôi muốn làm biếng đâu mà đây là một cảm giác chán chường, có hơi bi quan một chút. Tôi không có bệnh cũng không có vấn đề gì mà mới sáng thức dậy đã thấy bi quan rồi!
Tôi biết ai cũng đều đã từng một lần có tâm trạng giống như tôi. Thầy của tôi thường hay trích câu thơ của Xuân Diệu trong các bài giảng:“Tôi buồn không biết vì sao tôi buồn?“, còn tôi thì“Tôi chán không biết vì sao tôi chán!“
Nhưng tôi không muốn mang cái tâm trạng chán nản đó trong suốt cả ngày, tôi không muốn lãng phí thì giờ và năng lượng một cách ngu ngốc như thế. Vì thế tôi xin chia sẻ với những người thương phương pháp tôi sử dụng để vượt qua những lúc tệ hại đó. Phương pháp này tôi áp dụng bao giờ cũng thành công cả.
Tôi mở cửa ra vườn ngay. Vừa ra tiếp xúc với không khí bên ngoài là tôi đã thấy lòng nhẹ ra rồi. Tôi làm việc ngoài trời, quét lá, nhổ cỏ, chăm sóc cây cảnh, hoa trái. Tiếng chim hót rất vui, hương hoa thoang thoảng, gió mát dịu cả lòng. Làm việc ngoài vuờn rất mệt, lúc nào tôi cũng bị cào xước cả tay. Nhưng làm vườn là một pháp môn rất thần diệu, chỉ một lát sau thì cảm giác chán nản biến đâu mất hồi nào không hay. Có lúc tôi không làm vườn mà đi dạo ra công viên. Thiên nhiên là một nhà tâm lý trị liệu thật tài ba. Khi trở vào nhà thì tôi là một người mới hoàn toàn, vui vẻ, yêu đời và tràn đầy năng lượng tích cực.
Một ngày nào đó nếu bị rơi vào tâm trạng „tôi chán không biết vì sao tôi chán“ thì những người thương thử áp dụng phương pháp này rồi cho tôi biết kết quả nhé.
Tương tức
Chuyện gì mà lạ vậy? Cát trong sa mạc Sahara của Phi Châu lại có liên quan tới sự sống còn của rừng nhiệt đới Amazone ở Nam Mỹ? Hai nơi khác nhau hoàn toàn giống như là hai thái cực chống đối nhau ấy lại có một sự liên hệ rất là mật thiết với nhau sao?
Vào đầu tháng 5, khi ở sa mạc Sahara là mùa khô cằn nóng bức nhất thì ở rừng Amazone lại là mùa mưa dầm dai dẳng không dứt. Trong sa mạc Sahara, đoàn người du mục phải chiến đấu với cơn nóng như thiêu đốt, cát bị tung lên trên mỗi bước chân của đoàn lạc đà. Trong cát có phosphore và sắt tức là hai khoáng chất rất cần thiết cho sự sống. Những hạt cát nhỏ li ti ấy lại được gió đưa lên cao thành những đám mây khổng lồ. Chỉ trong vòng 6 ngày thì những đám mây cát đó đã được thổi tới vùng Amazone cách đó khoảng 8000 cây số. Mây cát và hơi nước trộn vào nhau và rớt xuống thành những cơn mưa dầm không dứt trong suốt tháng 5. Khoáng chất trong cát cũng theo nước mưa mà thấm vào đất của rừng Amazone. Đến cuối tháng 5 khi mùa mưa chấm dứt thì hạt mầm, cây cối nhận được khoáng chất nuôi dưỡng bắt đầu phát triển lên một cách thần tốc.
Chúng ta ai cũng rất“ngại“ và không“ưa“ cho lắm vùng sa mạc. Nó khô khan, nóng bức, chỉ toàn là cát, nhìn đơn điệu và ảm đạm như một vùng không có sự sống vậy. Chúng ta có ý thích rừng nhiệt đới hơn vì ở đó có nhiều loài thảo mộc đủ các màu sắc, là chỗ ở của nhiều loài cầm thú và chim muông rất đẹp. Hơn nữa rừng nhiệt đới còn được gọi là „lá phổi xanh“ của chúng ta nữa. Nhưng nhìn cho kỹ thì nếu không có cái khô cằn nóng cháy của sa mạc Sahara thì sẽ không có khu rừng ẩm thấp xanh tươi khổng lồ Amazone.
Vì vậy chúng ta hãy bớt“ngại“ và“ưa“ sa mạc hơn một chút đi nhé vì sa mạc cũng có thể được gọi là“khúc ruột vàng“ của chúng ta nữa đó!
Ngắm mưa
Đã lâu rồi không tâm sự với những người thương, một phần vì bận quá và một phần vì lười biếng. Có lúc như vậy đó, mình muốn đóng cửa lại, ngồi một mình và ngắm mưa… tại sao lại ngắm mưa mà không ngắm nắng ban mai, ngắm hoa lá cây cỏ nhỉ? Ngắm mưa thú vị lắm đó người thương ơi. Sân nhà tôi trồng rất nhiều hoa hồng, nói cho văn vẻ một chút là hoa mai quế. Tôi thích uống trà mai quế. Tôi thường cho một ít cánh hoa vào trà xanh để uống buổi sáng. Mai quế đẹp và thơm lắm, nhưng khi rụng thì ôi thôi quét gãy cả lưng luôn. Mỗi ngày tôi đều ra quét cánh hồng có khi tới hai ba lần luôn. Tôi không ưa mai quê rụng tí nào! Ấy vậy mà nếu trời mưa thì cả hoa cả lá đều rụng nhiều hơn, lại nữa không quét được nên sân đầy cả lá, hoa, cành thành đóng. Tôi ngồi nhìn mưa, nhìn luôn cái đóng rác đó mà không quét được. Ngồi ngoài hiên ngắm mưa và mấy cái đóng rác một hồi tự nhiên tôi không còn khó chịu nữa. Tôi bật cười một mình, tôi thấy đó là sự sống! Sự sống luân lưu trong cây hồng, trong hoa hồng, lá hồng và cả trong cánh hồng khi rụng xuống. Nếu không có sự sống thì làm gì có hoa hồng cho tôi ngắm, cho tôi uống trà và không có cả cánh hồng rụng cho tôi quét. Sự sống là sự thay đổi, chuyển biến từng giây từng phút. Tôi muốn có hoa hồng để ngắm, để uống trà mà không muốn quét cánh hồng rụng thì tôi thật là vô lý quá đi!
Monet
Monet là thần tượng của tôi. Những bức tranh của Monet đã cho tôi cảm hứng đến nỗi từ một người hoàn toàn không biết gì về hội họa tôi đã bắt đầu vẽ những bức tranh đầu tiên.
Đã 14 năm nay mỗi lần xem lại tranh Monet thì nguồn cảm xúc vẫn y nguyên như cũ. Lần nào xem lại một bức tranh của Monet cũng là lần đầu tiên đối với tôi. Tôi chưa bao giờ học vẽ nên không biết gì về kỹ thuật hội họa. Mỗi lần bắt đầu vẽ là tôi phải lật sách ra ngắm lại một chút tranh của Monet. Nó cho tôi nguồn cảm hứng, sức mạnh và lòng tự tin. Monet luôn luôn xuất hiện trong những bức tranh của tôi, có thể nói là Monet đã vẽ bằng bàn tay vụng về của tôi.
Theo tôi, Monet là một họa sư đã lấy cảm hứng từ sự thật vô thường của vũ trụ. Ông nói:“Đối với tôi, một phong cảnh không thể chỉ hiện hữu riêng một mình. Bầu không khí chung quanh và sự thay đổi liên tục của ánh sáng, của thời tiết đã làm cho một phong cảnh trở thành ra sự sống. Với tôi thì chủ đề vẽ không phải là vấn đề. Cái quan trọng là cái gì xảy ra giữa chủ đề được vẽ và người vẽ.“ Nhưng nói như vậy không có nghĩa là chủ đề mất đi tính chất hữu cơ của nó. Vì thời gian, ánh sáng và thời tiết thay đổi không ngừng nên khi Monet cầm cọ, màu và khung đi ra làm việc ngoài thiên nhiên thì ông đã vẽ hàng loạt những bức tranh có cùng một chủ đề trong một lúc và không bao giờ ngừng lại lâu hơn 15 phút ở mỗi bức tranh. Đó là tác phẩm của một họa sư trong sự hài hòa với thiên nhiên.
Sáng nay ngoài trời rất lạnh. Ra ngoài quét lá sồi rụng mà lạnh cứng cả hai bàn tay, lạnh quá nên nước mắt cứ trào ra nhòe nhoẹt. Nhưng nắng rất đẹp, nắng màu vàng anh đổ dài trên ngọn lá bắt đầu vàng úa. Đẹp lắm!
Từ mấy tháng nay mỗi sáng tôi đều ngồi uống trà với Thầy. Thầy và tôi uống trà Long Tỉnh. Thầy trò hạnh phúc lắm! Có điều lạ là từ khi Thầy trở bệnh, tôi lại gần gũi với Thầy hơn nhiều. Mỗi sáng Thầy trò cùng lạy Bụt, cùng ngồi thiền, và cùng uống trà với nhau. Sáng hôm nay cũng vậy, Thầy trò ngồi uống trà Long Tỉnh, hai thầy trò không nói với nhau một lời nào cả. Ly trà của tôi có khắc chữ“trink deinen Tee“, tôi luôn được Thầy nhắc nhở: Uống trà đi con! Ly trà của Thầy có chữ“das ist es“, Thầy nói với tôi: Đây là cái nớ đó con!
Nhưng tôi không có giỏi như vậy đâu. Từ khi nghe tin Thầy bệnh tôi đã chới với lắm rồi, tôi buồn lắm, buồn thật nhiều. Mùa Đông vừa rồi tôi buồn tới nỗi bị trầm cảm luôn. Tôi nhớ Thầy, nhớ những bài pháp thoại trong mùa ACKĐ. Bảy, tám năm nay tôi đã quen với những mùa Đông ngồi chép pháp thoại của Thầy, thật ấm áp, thật bình an, thật hạnh phúc. Thầy trong lòng tôi là một dũng tướng cưỡi con bạch mã cầm gươm xông vào trận chiến, trận chiến“đập cho tan tành đi huyễn tượng“. Bây giờ Thầy không nói pháp thoại nữa, Thầy không tự một mình đi trên những con đường huyền thoại nữa. Tôi buồn tới tê liệt luôn. Như Thầy đã dạy trong các bài pháp thoại: tôi có một pháp thân ốm yếu, èo uột.
Nhưng rồi thì dù sao tôi cũng vẫn là học trò của Thầy, tuy là dở ẹc nhưng vẫn là học trò của Thầy. Tôi phải tự cứu mình và đồng thời cũng cứu luôn Thầy của tôi. Mỗi buổi sáng tôi thắp hương trước bàn thờ Bụt và lạy xuống ba lạy. Trong ba lạy đó tôi thực tập trở về với hơi thở, nhìn cho kỹ để tìm thấy tôi, tìm thấy tổ tiên huyết thống, tổ tiên tâm linh và Thầy trong tôi. Ngồi thiền trong 10 phút tôi áp dụng những gì tôi đã ghi chép trong suốt 7, 8 năm qua:
Để thầy thở, để thầy ngồi Mình khỏi thở, mình khỏi ngồi
Thầy đang thở, thầy đang ngồi Mình đang thở, mình đang ngồi
Thầy là thở, thầy là ngồi Mình là thở, mình là ngồi
Chỉ có thở, chỉ có ngồi Không người thở, không người ngồi
An khi thở, lạc khi ngồi An là thở, lạc là ngồi
Rồi tôi mời Thầy cùng uống trà với tôi. Hai thầy trò uống trà Long Tỉnh. Tôi thực tập như vậy trong mấy tháng qua, tại vì chỉ có như vậy thì tôi mới xứng đáng với tình thương của Thầy. Và bây giờ tôi đã khá lắm rồi. Tôi cảm thấy gần gũi với Thầy hơn xưa. Tôi bớt buồn nhiều lắm vì tôi biết lúc nào Thầy cũng đang ở cạnh bên tôi, Thầy đang ở trong tôi.