Archiv des Autors: Trang Bui

Hòa bình-Tâm bình thế giới bình

Thầy Nhất Hạnh trả lời câu hỏi của các thiền sinh về vấn đề Hòa bình

Con người phải làm thế nào để đem lại hòa bình trên thế giới?

Chúng ta phải bắt đầu ở chính mình. Chúng ta phải học làm thế nào để trở thành hòa bình. Ta phải làm cho thân , cảm thọ và tri giác của mình có bình an. Cách ta suy nghĩ, cách ta nói năng phải có bình an. Nếu làm thành công thì ta có thể tạo cảm hứng cho người khác cũng làm được như vậy. Và thế giới sẽ được bình an.

Nếu có nhiều sự căng thẳng, sự đau nhức trong thân thì ta sẽ không có bình an. Chúng ta phải thực tập để làm thư giản sự căng thẳng và làm dịu đi sự đau nhức trong thân thì ta sẽ có nhiều bình an hơn.

Nếu trong ta có những cảm xúc như sự giận dữ, sự sợ hãi hay bạo động mà ta biết cách thực tập như sử dụng hơi thở hay bước chân để làm lắng dịu những cảm xúc đó thì ta sẽ có bình an. Chúng ta phải ăn uống như thế nào để thân ta không bị xáo trộn. Chúng ta phải đọc sách và tạp chí nào, phải xem những phim nào không tưới tẩm hạt giống của bạo động, sợ hãi, giận dữ và tuyệt vọng trong ta. Đó là sự thực tập hòa bình. Chúng ta phải rất  cẩn thận! Ta không nên tiêu thụ những thứ gì mà trong đó có bạo động, sự giận dữ và sự sợ hãi như những trò chơi điện tử, sách báo hay phim ảnh. Như vậy ta sẽ không có bình an và thế giới sẽ không có hy vọng được bình an. Trước tiên chúng ta phải thực tập là hòa bình để thế giới có được hòa bình. Vì vậy chúng ta có câu:“Tâm bình thế giới bình.“

Thưa Thầy con nghĩ tăng thân chúng con nên sử dụng những phương thức đi ra ngoài luật lệ như là dùng thân mình làm những tấm lá chắn để thức tỉnh con người và để chấm dứt chiến tranh và bạo động trên thế giới.

Tôi nghĩ tốt hơn là mình nên trở thành những tấm gương để người khác noi theo. Mình xây dựng một đoàn thể trong đó có bình an, có tình huynh đệ. Đoàn thể của mình thể hiện được hòa bình và tình huynh đệ thật sự. Mình tiêu thụ như thế nào để có thể bảo vệ được môi trường. Mình nói và nghe như thế nào để không có sự chia rẽ và giận dữ trong đoàn thể. Mình sống một cách giản dị và có hạnh phúc. Tôi nghĩ đó là phương pháp xây dựng hòa bình nhanh nhất, tại vì mình cho người khác thấy rằng hạnh phúc có thể có được mà không cần phải có nhiều tiền hay nhiều vũ khí tức những thứ mà người ta cho là cần thiết để có thể sống còn. Đoàn thể của mình lành mạnh, lành mạnh cho mình và lành mạnh cho thế giới. Chúng ta sống như thế nào để có một tương lai.

Chúng ta làm gương cho những người khác tới quan sát và họ có thể học hỏi nơi đoàn thể của mình. Họ đang chạy theo danh vọng, quyền hành, tiền bạc và sắc dục nhưng họ không có hạnh phúc. Những thứ đó tàn hại thân và tâm của họ, tàn hại môi trường, tạo nên nhiều giận dữ và bạo động trong xã hội. Khi thấy lối sống của chúng ta họ sẽ thức tỉnh và thay đổi. Lối sống của mình, đoàn thể của mình là một bài pháp thoại cho họ. Với một đoàn thể như vậy chúng ta có thể thực tập giáo dục hòa bình. Chúng ta có thể tới nhiều nơi để nói với những người khác một cách cụ thể rằng: Đây là lối sống để có được hạnh phúc mà không cần phải tạo ra bạo động và thèm khát trên thế giới.

Chúng ta phải xây dựng hàng chục đoàn thể như vậy. Thật ra ở Làng Mai chúng tôi đang làm công việc đó. Bắt đầu từ một đoàn thể thực tập chánh niệm, chúng tôi thành lập thêm một cái, rồi một cái nữa… Chúng tôi tổ chức những khóa tu ở những trung tâm tu tập. Người ta tới với chúng tôi để thực tập con đường hòa bình, thực tập sống đời sống giản dị và có chánh niệm. Sau đó họ trở về nhà và lập tăng thân. Hàng ngàn tăng thân đã được thành lập bởi những thiền sinh, và công việc đó đang tiếp tục lan rộng. Đó là con đường bất bạo động. Chúng ta không cần dùng cái chết để có thể gởi ra thông điệp. Trái lại chúng ta cần phải sống để tiếp tục công việc. Mình có thể vào tù và tiếp tục chống đối. Nhưng chống đối không phải là cách hay nhất. Dù có chống đối mạnh mẽ đi nữa thì mình cũng không giúp được cho người khác chuyển hóa được sự sợ hãi, sự giận dữ, sự thèm khát của họ. Chỉ cho họ một con đường bằng một cách thức thật dễ thương cùng với sử dụng ái ngữ và lắng nghe thì mình mới có thể giúp cho họ thức tỉnh để họ chọn con đường khác thay vì đi theo con đường cũ của bạo động, chia rẽ và kỳ thị. Đó là mình hạnh động thật sự chứ không thụ động.

Xây đựng tăng thân, sống theo Năm Giới, thực tập tiêu thụ có ý thức, thành lập những gia đình, những đoàn thể có hạnh phúc và giúp cho những người khác cũng làm được như vậy. Tôi nghĩ đó là phương pháp để đem lại hòa bình cho thế giới.

Mình tập viết một lá thư tình thay vì viết một lá thư chống đối. Ví dụ như mình muốn viết thư cho ông dân biểu hay cho ông tổng thống của mình, nếu mình chỉ viết một lá thư chống đối thì ông ta sẽ không thay đổi gì đâu. Nhưng nếu mình viết một lá thư tình nói rằng:“Kính thưa ông tổng thống, kính thưa ông dân biểu, chúng tôi biết ông có rất nhiều khó khăn và đau khổ. Ông muốn thực hiện giấc mơ của mình để giúp cho dân, cho nước nhưng ông chưa thể làm được. Chúng tôi hiểu, nên chúng tôi xin đề nghị vài điều…“ Trong bức thư mình giúp cho ông ta nhận diện được sự sợ hãi, sự giận dữ, sự thèm khát trong ông. Nó đã ngăn không cho ông thực hiện được giấc mơ của ông. Khi đọc lá thư, ông ta có thể nhờ vào tuệ giác của mình mà chuyển hóa. Nếu mình chỉ biết viết một lá thư chống đối thì nó sẽ không có được tác dụng như vậy. Mình phải học cách viết một lá thư tình để giúp cho người kia hiểu được chính họ và thay đổi. Đó là hòa bình.

Kính bạch Thầy con cũng muốn tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Nhưng khi theo dõi tin tức hàng ngày con cảm thấy những hạt giống của sự tuyệt vọng, sự bất lực trong con được tưới tẩm. Con phải thực tập như thế nào để xử lý vấn đề đó?

Đừng nghe tin tức nhiều quá! Tôi không còn đọc báo nữa. Tại sao phải nghe tin tức nhiều lần trong ngày? Nếu có những tin vui thì không ai thông báo cho chúng ta cả.

Có thể vì trong tâm mình có sự cô đơn, trống trải nên mình cần biết những gì đang diễn ra trên thế giới với hy vọng là có một việc tốt xảy ra. Nhưng sự thật thì những việc xảy ra hầu như đều là không tốt. Hàng ngày chúng ta nghe tin tức nói về giết chóc, chiến tranh, bạo động. Không riêng những nhà báo thôi mà có rất nhiều người chỉ toàn loan ra tin tức xấu. Vì vậy chúng ta cần phải đóng cửa lại và đừng nghe tin tức nhiều quá.  Chúng ta cần để thì giờ gieo trồng bình an và từ bi trong ta.

Phần lớn bạo động trên thế giới là kết quả của sự kỳ thị. Người ta không chấp nhận được nhau vì con người có những lối suy nghĩ, có những cách hành xử khác nhau. Chúng ta có những ý niệm khác nhau về “tốt và xấu“ và đánh giá người khác dựa trên những ý niệm đó. Có rất nhiều sợ hãi, giận dữ và nghi ngờ trên thế giới. Chúng ta sát hại lẫn nhau vì sợ rằng nếu mình không giết người kia trước thì người kia sẽ giết mình. Bạo động bắt nguồn từ sự sợ hãi và sự nghi ngờ.

Nếu để thì giờ gieo trồng thêm hiểu và thương, giúp làm giảm bớt sự nghi ngờ, sự sợ hãi và sự giận dữ trên thế giới thì ta đã giúp được cho thế giới. Là một nhà giáo hay một nhà báo chúng ta có thể thực tập như thế nào để giúp cho con người trở nên bao dung hơn, hiểu biết hơn, từ bi hơn. Đó là việc chúng ta có thể làm được mỗi ngày.

Là một nhà báo, mình phải tường thuật một vài biến cố bạo động. Nhưng mình có thể viết bài phóng sự đó như thế nào để không tưới tẩm thêm hạt giống của sự giận dữ, sự sợ hãi và sự tuyệt vọng trong lòng của những đọc giả. Mình có thể trình bày những gì đang thật sự xảy ra, nhưng trong lúc viết bài phóng sự mình có thể giúp đọc giả  hiểu được tại sao những biến cố đó lại xảy ra. Người ta đọc bài phóng sự của mình và trở nên hiểu biết hơn, có từ bi nhiều hơn. Là một nhà báo mình có thể giúp làm giảm bớt năng lượng của sự giận dữ, sự sợ hãi và kỳ thị trên thế giới.

Mỗi người trong chúng ta đều có thể làm một cái gì đó trong đời sống hàng ngày của mình để giúp làm giảm thiểu sự hiểu lầm, sự kỳ thị, sự sợ hãi, sự giận dữ và bạo động trên thế thế giới. Thay vì khổ đau vì cái quả thì chúng ta hãy chăm sóc cho cái nhân!  

Con người Tiếp Hiện

Sư cô Chân Đoan Nghiêm

Khóa tu 2026

Nurturing the Fire (NUÔI DƯỠNG NGỌN LỬA)

Khoá tu Plum Village – Kỷ niệm 60 năm thành lập Dòng Tu Tiếp Hiện

Kính bạch Thầy khả kính và thương quý,

Kính gửi các anh chị em Tiếp Hiện (OI) trên toàn thế giới,

Kính gửi các tăng thân địa phương trên toàn cầu,

Khoá tu Plum Village tháng 6 năm 2026 sẽ kỷ niệm 60 năm thành lập Dòng Tiếp Hiện (OI), được Thiền sư Thích Nhất Hạnh sáng lập vào năm 1966. Thành viên của Dòng Tu Tiếp Hiện (OI) gồm cả xuất sĩ và cư sĩ, những người thực tập và sống theo Mười bốn Giới Tiếp Hiện.

Đây sẽ là cơ hội quý giá cho gia đình Tiếp Hiện toàn cầu được sum họp tại Plum Village – trung tâm tu tập lâu đời nhất trong số 11 trung tâm tu tập của Làng Mai trên thế giới.

Khoá tu sẽ kéo dài bốn tuần:

Tuần 1: Ngày đến 1.6.2026, ngày đi 8.6.2026.
Tuần này mở rộng cho tất cả những ai quan tâm đến con đường Bồ Tát của Dòng Tu Tiếp Hiện. Nội dung tu tập xoay quanh lịch sử và pháp môn của Dòng Tu Tiếp Hiện. Mọi người sẽ có cơ hội tiếp nhận Năm giới quý báu, vốn liên hệ mật thiết với Mười bốn Giới.

Tuần 2 và 3: Ngày đến 9.6, ngày đi 23.6.2026.
Hai tuần này dành riêng cho các thành viên và các vị tập sự đã được chính thức chấp nhận. Chúng ta cùng nhau quán chiếu sâu về quá khứ, hiện tại và tương lai của cộng đồng Dòng Tu Tiếp Hiện thân thương. Đây là thời gian tu tập chuyên sâu, với pháp thoại và pháp đàm, xoay quanh các chủ đề:

  • Làm thế nào để thực hiện lý tưởng Bồ Tát,
  • Các phương thức củng cố Dòng Tu Tiếp Hiện,
  • Ý nghĩa và tính thời sự của Hiến chương Dòng Tu Tiếp Hiện ngày nay.

Người tham dự được khuyến khích ở trọn hai tuần để duy trì tính liên tục của sự tu học.

Tuần 4: Bắt đầu 24.6, kết thúc 30.6.2026.
Để tiếp nối năng lượng của khóa tu, một nhóm đại diện xuất sĩ và cư sĩ sẽ họp Hội đồng Dòng Tu Tiếp Hiện như Hiến chương quy định. Hội đồng sẽ thảo luận những thay đổi liên quan đến Dòng Tu, vốn được chuẩn bị trong tuần 2 và 3 qua sự lắng nghe sâu. Hội đồng cũng sẽ chọn ra một Ban điều hành, chịu trách nhiệm tổ chức và hướng dẫn sinh hoạt của Dòng Tu Tiếp Hiện thế giới cho đến kỳ họp sau.

Thời gian trôi nhanh, và chúng tôi muốn chia sẻ ý tưởng, dự định ngay từ bây giờ để chuẩn bị cho khóa tu năm 2026.

Nếu bạn là thành viên một tăng thân địa phương, một tăng thân TH, hoặc một nhánh nào khác của gia đình Làng Mai, xin hãy suy nghĩ về việc tổ chức các buổi “Fire-building” – nơi những thành viên TH chính thức, những vị tập sự và những vị tu tập dấn thân có thể chia sẻ kinh nghiệm và đề xuất hướng đi cho tương lai của DTTH và tăng thân Làng Mai toàn cầu.

Thêm thông tin và gợi ý cho các buổi Fire-building có trong Thư mời Fire-building.

Chúng tôi cũng khuyến khích các tăng thân địa phương và vùng miền, cũng như giới trẻ Wake Up và những vị thực tập tinh tấn, tạo điều kiện tài chính cho những ai cần hỗ trợ để tham dự. Chúng tôi chân thành hy vọng quý vị có thể tham gia cuộc họp Đại tăng thân quan trọng này của Dòng Tu Tiếp Hiện.

Với lòng tri ân,
Ban tổ chức và điều phối khóa tu TH tháng 6.2026

(Anh-Huong Nguyen, sư cô Chân Đức, sư cô Định Nghiêm, Shantum Seth, Mitchell Ratner, Michael Schwammberger, Gitu Seth, sư cô Hội Nghiêm, Bettina Romhardt, Kai Romhardt, thầy Pháp Lai, thầy Pháp Hữu, Vari McLuskie, thầy Pháp Khả, Valerie Brown, sư cô Hiến Nghiêm, sư cô Trai Nghiêm và thầy Phương Cần.)

Đăng ký tham dự: Thông tin chi tiết sẽ được thông báo sau.

Học lại thương yêu

Chân Sinh Nghiêm

Các bạn trẻ thân mến,

Tôi đã chạy vòng quanh trong 30 năm để đi tìm một tình yêu và hạnh phúc đích thực mà không thành công. Tôi đã từng trải nghiệm qua những đỉnh cao hưng phấn và đã từng chìm sâu vào vực tối hoang mang, bởi vì tôi không biết cách thương yêu thật sự. Tôi không nắm được nghệ thuật vui với những những thứ bình thường trong đời sống hàng ngày. Tôi muốn chia sẻ với các bạn về cuộc hành trình của riêng tôi trên con đường đi tìm tình yêu đích thực. Tôi hy vọng các bạn có thể rút ra được chút gì đó và sự chia sẻ này có thể giúp các bạn tránh được những khổ lụy không cần thiết, những khổ đau có thể ngăn cản bạn trải nghiệm được tình yêu và hạnh phúc đích thực. Chúng ta sống trong một thế giới được trang bị đầy đủ vô số các phương tiện truyền thông nối kết chúng ta với nhau. Nhưng nhiều khi chúng ta lại không có khả năng lấp được khoảng trống nội tâm. Chúng ta không biết làm thế nào để xử lý những cảm giác cô đơn, xa cách.

Những trải nghiệm tình dục (khi chưa xuất gia), từ bé cho đến khi lớn lên sau này, đã gây cho tôi rất nhiều thương tích bởi vì trong tôi có sự lầm lẫn nghiêm trọng giữa tình yêu và tình dục. Khi còn bé tôi đã bị một người con trai lớn tuổi hơn lạm dụng tình dục. Trong đầu óc trẻ con non nớt của tôi, hạt giống của sự tin tưởng đã bị tổn hại ở hai mức độ: sự tin tưởng đối với nam giới và sự tin tưởng đối với ba mẹ. Tôi không biết cách hòa giải với cảm xúc giận dữ đối với ba mẹ tại vì họ không bao giờ có mặt đó để ôm ấp và bảo vệ tôi.

Nhìn lại những cuộc tình đã qua của tôi, tôi có thể thấy rõ là lúc nào tôi cũng cố gắng đi tìm cho cô bé bị thương trong tôi một thứ gì như là hiểu biết và thương yêu

Tôi cắt đứt quan hệ tình cảm với ba mẹ và quyết định là tôi sẽ tự chăm sóc cho mình. Về phương diện tình cảm, tôi không chờ đợi gì ở họ nữa. Quyết định này đã khiến tôi đi tìm một tình yêu vô điều kiện ở bên ngoài, tương tự như tình thương mà tôi đã cắt đứt. Nhìn lại những cuộc tình đã qua của tôi, tôi có thể thấy rõ là lúc nào tôi cũng cố gắng đi tìm cho cô bé bị thương trong tôi một thứ gì như là hiểu biết và thương yêu. Nhưng sự cố gắng này luôn đưa tới sự thất bại, bởi vì nó đã đến từ một cái thấy sai lạc, cho rằng người khác có thể chữa lành cho cô bé bị thương kia. Thật ra thì chỉ cần cô ta hòa giải và kết nối lại với kho tàng tình thương của ba mẹ lúc nào cũng có sẵn đó cho cô thì sự trị liệu sẽ xảy ra thôi.

Trong gia đình huyết thống của tôi có những khổ đau của “sự chung thủy và ghen tuông“. Khổ đau đó có trong ba mẹ và cả trong ông bà của tôi. Là sự tiếp nối của họ tôi đã tiếp nhận những hạt giống tham dục và khổ đau đó. Nhưng tôi không nhận ra được và không biết cách chuyển hóa chúng. Tôi lại lớn lên trong một xã hội mà người ta lại đặt trọng tâm vào sự thỏa mãn dục vọng như thể đó là mục tiêu của đời mình. Tôi không tránh khỏi có những quan niệm méo mó về tình yêu và tình dục. Hình như trong xã hội của chúng ta có quá nhiều “tình dục trống rỗng“, nó để lại trong tôi một cảm giác trống trải và xa cách mặc dù những người đến với tôi là những người dễ mến, có học thức, kể cả những người có sự thực tập tâm linh. Lúc đầu thì tôi cảm thấy có một sự kích thích mới mẻ và niềm vui được đến với nhau, nhưng sau một thời gian thì cái cảm giác khó chịu và xa cách kia lại trồi lên.

Nhìn lại những cuộc tình đã qua, tôi thấy nhiều mối quan hệ đã được hình thành trên căn bản của một sự lôi cuốn hời hợt và nhất thời do nhu cầu thương và được thương không được thỏa mãn trong tôi

Không ý thức được quan niệm sai lạc của mình và hậu quả của nó, tôi còn học cách sử dụng năng lượng tình dục để kiểm soát và chinh phục, cho đó là cái quyền thể hiện sức mạnh của nữ giới trong thời đại của tự do tình dục và không cần một sự cam kết lâu dài. Tôi đã sống như vậy, không để tâm đến cảm nhận của người khác. Những cuộc tình đã qua đều đến từ sự lôi cuốn hời hợt và nhất thời. Sự lôi cuốn đó phát sinh từ nhu cầu thương yêu và/hay được thương yêu và chấp nhận không được thỏa mãn trong tôi

Tôi thấy động lực thúc đẩy tôi đến với những cuộc tình đó đều là đến từ tôi: tôi cần cái gì, tôi muốn cái gì, cái gì thích hợp cho một gia đình trong tương lai theo sự mong đợi của tôi. Hay là do tôi không muốn sống một mình, tôi thích „đùa chơi“ tí thôi. Hay tôi không muốn bị xem như một người “bỏ đi“, một người ế ẩm không ai thèm và sẽ trở thành một cô gái già. Thành thực mà nói, trong những cuộc tình đã qua của tôi, tôi chưa hề biết thế nào là tình yêu thật sự. Tôi xin lỗi tất cả những người đã từng đến với tôi. Tôi xin lỗi vì không biết cách chăm sóc đau khổ của tự thân và làm cho các người cũng phải khổ theo.

Năm 30 tuổi, với một quá trình chọn lọc thông minh tiến bộ, tôi nghĩ mình có thể chọn lọc được những đức tính quan trọng nhất mà tôi đòi hỏi ở một người bạn đời để đảm bảo cho một sự cam kết tốt đẹp dài lâu, cho đến khi hai đứa chúng tôi trở thành hai cụ già xọm không còn cái răng nào, ngồi bên nhau cùng ôn lại chuyện cũ. Nhưng một lần nữa, cùng với tình yêu lãng mạn, tôi lại gặp những khó khăn và khổ đau xoay quanh những khuôn mẫu tương tự như sự ghen tuông và chiếm hữu, sự xa cách, những cảm giác trống trải, chán nản, bất như ý trong tôi, giống như cái hậu vị chua chua khi chúng ta ăn một món tráng miệng thật ngọt. Với tỷ số những cặp vợ chồng ly dị cao hơn 50%, tôi không có nhiều hy vọng có được một mối quan hệ hạnh phúc và lâu dài. Tôi muốn tìm ở người kia một cảm giác thân mật gần gũi nhưng cuối cùng tôi lại cảm thấy xa cách và lạc lõng hơn trước.

Có cái gì trong tôi ngăn cản không cho tôi có được hạnh phúc và sự mãn ý mà tôi khao khát trong một mối quan hệ. Bất kể là với ai, tôi đều gặp phải những vấn đề tương tự. Vì thế tôi quyết định không hành xử theo phương cách thông thường nữa, tôi dừng lại những mối quan hệ tình cảm để nhìn sâu vào tự thân mình. Tôi xin nghỉ việc và ghi tên tham dự khóa An Cư 3 tháng mùa Đông ở Làng Mai. Sau khi trải nghiệm được niềm vui của đời sống Tăng Thân, bình an và hạnh phúc của sự thực tập chánh niệm trong đời sống hàng ngày và hiểu được chính mình hơn thì sự lựa chọn một lối sống và một sự nghiệp khác càng trở nên hấp dẫn hơn. Tôi trở thành một sư cô trong khi đi tìm một tình yêu đích thực.

Có một điều thật buồn cười là tôi chỉ bắt đầu khám phá được tình yêu đích thực  khi chọn đời sống độc thân, nhưng điều đó đang thực sự xảy ra. Tôi vẫn đang học về tình thương đích thực, tại vì thương yêu đích thực là một sự thực tập hàng ngày mà không phải là một cảm giác. Nó làm cho trái tim mình lớn rộng và bao dung hơn. Tôi thấy bước đầu tiên trong quá trình học thương là học cách chăm sóc và đối xử với thân tâm mình một cách kính trọng và từ bi.

Tôi biết rằng bước đầu tiên trong quá trình học thương là học cách chăm sóc và đối xử với thân tâm của mình một cách kính trọng và từ bi

Bước đầu tiên trong việc chăm sóc tâm là tôi ý thức được những cảm quan của mình và những tri giác sai lầm do những cảm quan đó tạo ra. Bây giờ tôi có thể thấy rõ là khổ đau của tôi đến từ nhận thức sai lầm của mình về nam giới, từ cái thấy lệch lạc về chính bản thân và từ quan niệm u mê về tình dục, tình yêu và những mối quan hệ. Lớn lên trong một môi trường của công nghệ thông tin, tôi nghĩ rằng nhận thức sai lầm của cá nhân tôi cũng là một phản ảnh của nhận thức chung của xã hội. Truyền thông là một yếu tố quan trọng trong việc huân tập quan niệm của tôi về những mối quan hệ.  Ví dụ như, tôi còn nhớ phim Jerry Maguire đã từng một thời rất nổi tiếng trong thập niên 90. Trong phim, nhân vật nữ chính nói một câu thoại như thế này: „Em đã yêu anh ngay ở câu xin chào“, hoặc là „Anh hoàn thiện con người em“. Vào thời đó tôi nghe thật là lãng mạn. Nhưng bây giờ, nhớ lại những câu thoại kia, tôi nghĩ nhân vật nữ chính ấy đang đi tìm khổ đau tại vì khi lệ thuộc quá nhiều vào một người hoặc một vật nào ở bên ngoài để được hoàn thiện thì coi như mình đánh mất hết chủ quyền đối với hạnh phúc và sức khỏe của bản thân.

Trong vô số những phim khác tôi thấy người ta đã có quan hệ tình dục với nhau sau vài lần hoặc chỉ sau một một lần hẹn hò. Hoặc có rất nhiều bài hát về tình dục, nhiều đến nỗi bạn sẽ bị cho là không bình thường nếu bạn không có quan hệ tình dục với người kia, cho dù là bạn có yêu người kia hay không, và không cần biết là bạn đã quen với người kia bao lâu. Người ta hẹn hò với nhau vì sự hấp dẫn bề ngoài. Có vô số phương tiện giúp làm tăng cái đẹp bề ngoài để gây sự chú ý như quần áo, mỹ phẩm, phẩu thuật thẩm mỹ, giảm cân, v.v…Chúng ta đã bỏ quá nhiều thời giờ và tiền bạc, chúng ta đã cố gắng quá nhiều, phải chịu đau đón để trả giá cho cái đẹp bề ngoài và để trở thành khác hơn là chính mình. Vì vậy cho nên, nếu hiếm khi tôi cảm thấy thoải mái trong da thịt của chính tôi thì cũng không có gì đáng ngạc nhiên cả! Sự huân tập qua phương tiện truyền thông, gia đình và bạn bè này đã bắt đầu ở tuổi thiếu niên rồi.

Tôi lớn lên trong sự tiêu thụ những hình ảnh của một cái đẹp được chỉnh sửa thật hoàn hảo bằng airbrushed trên máy tính của những phụ nữ cao, gầy trơ xương với những đường cong thật đúng chỗ, với da mặt đẹp “tự nhiên“ một cách hoàn mỹ. Từ lúc còn niên thiếu tôi đã không chấp nhận được thân thể của mình, có khi tôi còn khinh thường nó nữa. Tại sao tôi luôn cảm thấy mình khiếm khuyết sau khi xem qua mấy tạp chí phụ nữ hay tạp chí thời trang, trong khi mục đích và ý nghĩa của các tạp chí này là để yểm trợ cho sức khỏe và hạnh phúc của nữ giới? Tôi không mua các tạp chí đó thường xuyên, nhưng những tấm quảng cáo được dán đầy ngoài đường phố, trong các trung tâm thương mại, quảng cáo được chiếu trên truyền hình và được đưa lên mạng như thể “nhồi ép“ con người phải theo tiêu chuẩn của một lối sống tiêu thụ và một hình ảnh thật „ngầu“ của chính bản thân. Điều này thật là tai hại vì nó làm cho tôi cảm thấy chán ghét chính bản thân, tôi không chấp nhận được hoàn cảnh của mình. Tôi không có cơ hội để sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại vì lúc nào tôi cũng phải mua sắm cái gì đó để có hạnh phúc, để được “ngầu“. Vì có mặc cảm về thân thể mình nên tôi chưa bao giờ cảm thấy hoàn toàn thoải mái và thực sự kết hợp được với ngưòi kia cho dù người kia có thể chấp nhận tôi như tôi là.

Bảy năm sau khi xuất gia thành một sư cô và được sống trong một môi trường không có những tham dục, tôi vẫn đang học cách trị liệu cho cái thấy được huân tập về thân thể của mình. Hàng ngày tôi thực tập chuyển hóa tập khí cũ trong sự tiếp xúc với người khác, tiếp xúc mà không bị thúc đẩy bởi sức hấp dẫn hay ý muốn chinh phục. 

Cái ý nghĩ “không chấp nhận bản thân“ đã ăn sâu trong tôi cho đến nỗi, sau khi xuất gia và được sống trong một môi trường không có những tham dục được 7 năm mà tôi vẫn còn đang học cách chữa trị những cái thấy được huân tập về thân thể mình và thực tập chuyển hóa tập khí cũ trong sự tiếp xúc với người khác, tiếp xúc mà không bị thúc đẩy bởi sức hấp dẫn hay ý muốn chinh phục. Tôi học cách đối xử với thân thể tôi một cách kính trọng và từ bi. Tôi ý thức được thức ăn mình đang ăn, tôi ngủ đầy đủ và thư giãn. Tôi học cách xử lý sự căng thẳng và những cơn bão cảm xúc bằng cách sử dụng hơi thở và bước chân chánh niệm. Chung quanh tôi là một môi trường nhiều thiên nhiên có công năng trị liệu, một môi trường giống như Đất Mẹ tiếp nhận được tất cả. Là một bông hoa xinh đẹp hay một chiếc lá hư tàn, chúng ta đều là những sáng tạo mầu nhiệm của Đất Mẹ. Bông hoa không thể so sánh và chê bai chiếc lá tại vì chiếc lá có khả năng cung cấp những chất dinh dưỡng để nuôi cây và bông hoa.

Sau khi rời bỏ môi trường cũ và cho phép mình trải nghiệm một môi trường mới thứ hai, một môi trường không có những kích thích dung thường, tôi mới có thể thấy rõ hơn tác dụng của sự huân tập trên cách hành xử và sự lựa chọn tiêu thụ hàng ngày cho sức khỏe của thân và tâm. Sống trong của một xã hội công nghệ cao như hiện nay giống như bơi trong một dòng thác lũ. Chúng ta chỉ bị cuốn đi, trồi lên sụp xuống mà không tự chủ được. Thỉnh thoảng chúng ta dừng lại lấy hơi và thoáng thấy được một chút trời xanh. Nhưng nếu tìm được cách thoát ra khỏi dòng thác lũ đó và ngồi lên bờ thì chúng ta sẽ nhận ra rằng bình an và thong dong là điều có thể có được. Trời xanh và cây xanh thật đẹp, những vì sao lấp lánh trong đêm linh thiêng là những mầu nhiệm, và chúng ta cũng là những mầu nhiệm.

Các nhà dinh dưỡng thường nói:“Quí vị là cái mà quí vị ăn“ Tôi nghĩ điều này cũng đúng với tâm của mình. Điều mình nghĩ, điều mình làm, kể cả những tập khí của mình, đều tùy thuộc vào những gì mà mình tiêu thụ qua những cảm quan đưa tới nhận thức của mình về một cái gì đó. Nếu mình tiếp tục tiêu thụ hình ảnh, âm thanh và ý tưởng có mục đích củng cố thêm những nhận thức đó thì nó sẽ trở thành một quan niệm ăn sâu trong tâm thức của mình. Nó trở thành sự thật của mình. Quá trình này xảy ra một cách thật tinh vi cho đến nỗi mình cũng không nhận ra là mình đã thay đổi quan niệm và nhận thức.  Nếu quan niệm đó sai lạc thì nó sẽ là nền tảng của mọi hành động gây ra phiền não và khổ đau cho mình. Tôi không qui lỗi cho truyền thông và xã hội đã làm cho tôi đau khổ. Tôi chỉ cố gắng chia sẻ để chúng ta thấy rõ những cảm quan đã tác động hàng ngày lên tâm của ta như thế nào. Chúng ta chọn tiêu thụ một cách thông minh để có thể bảo hộ cho thân và tâm. Cũng giống như khi ta nhúng hoa lan trắng vào nước có pha màu tím thì hoa lan sẽ trở nên tím. Ta chọn cho mình thực phẩm nào, ta chọn màu nào cho hoa lan ta đây?

Chúng ta có ý thức hơn về sự tác động hàng ngày của những cảm quan lên tâm của mình. Chúng ta chọn tiêu thụ một cách thông minh để có thể bảo hộ cho thân và tâm.

Tôi đã chứng thực được điều này khi sống giản dị hơn, với ít kích thích cảm quan hơn. Tôi tập vui với những cái đơn giản và thấy được sự mầu nhiệm trong những cái bình thường của đời sống. Tôi sắp xếp lại thứ tự ưu tiên cho bản thân theo một chiều hướng đúng đắn. Chúng ta hay xem thường những chuyện đơn giản như đi dạo trong buổi hoàng hôn thật đẹp, ngắm ánh trăng vẽ qua cành lá những hình bóng tuyệt đẹp trên nền đất, cùng người thương thưởng thức màu thơm ngon của lá mùa thu trong chiều chủ nhật. Những cái mình làm hàng ngày có thể là chính là cái cần thiết nhất cho tinh thần khi tâm mình ở cùng với thân, khi mình có mặt trong giây phút hiện tại và an trú trong hơi thở chánh niệm. Đất Mẹ cung cấp cho mình biết bao nhiêu là phép lạ. Nhưng chỉ khi nào dừng lại thì mình mới có thể tiếp nhận để được trị liệu và chuyển hóa. Nếu không thì mình chỉ là người cùng tử, chạy tìm vòng quanh trong khi mình đã có bảo vật trong tay.

Trong những khóa tu mùa hè tại Làng Mai chúng tôi thường tổ chức chương trình cho người trẻ. Năm ngoái khi làm việc với người trẻ tôi rất đau lòng khi nghe câu chuyện của nhiều người trẻ chán ghét thân thể của mình. Các em thấy mình cần phải che dấu cái xấu của mình bằng cách trang điểm thật nhiều hay mình chỉ có thể thu hút người khác bằng cách ăn mặc khêu gợi hay mình chỉ được chấp nhận và thương yêu khi nào mình đồng ý có sự quan hệ tình dục. Thật là không may khi rượu chè, ma túy và quan hệ tình dục trở thành một nguồn áp lực của bạn bè đồng trang lứa trước khi người trẻ trưởng thành về mặt tinh thần và tình cảm để có thể xử lý những vấn đề đó. Biết được sự thật này thì tôi hiểu tại sao người ta lại chỉ biết tình dục trống rỗng mà không chạm tới được tình yêu đích thực và tại sao họ lại đau khổ vì cái thứ hạnh phúc cạn cợt này. Chúng ta phải làm gì để giúp các bạn trẻ có được những quan niệm thực tế hơn, có cái nhìn dễ thương và kính trọng hơn về cái đẹp, về tình yêu và tình dục cũng như những quan niệm có công năng nuôi dưỡng và xây dựng con người thật của mình.

Trong sự thực tập hàng ngày chúng tôi có một bài kệ đọc lên khi soi gương:

Chánh niệm là đài gương
Gương soi hình tứ đại
Đẹp nhất là tình thương
Và cái nhìn rộng rãi

Khi mình có từ bi và không gian trong trái tim thì người khác sẽ thấy nơi mình một sức lôi cuốn tự nhiên và sẽ tìm tới mình, mình không cần sử dụng mỹ phẩm hay sức hấp dẫn nào. Trái lại, nếu mình là những người mẫu nổi tiếng với y phục và trang sức thật đẹp mà mình lại đi xem thường người khác, cho rằng mình đã biết tất cả rồi thì người khác cũng không thích tiếp xúc với mình. Một thống kê của Road Dahl cũng đưa ra vấn đề này:“ Nếu quí vị có một tâm hồn tốt đẹp thì nó sẽ thể hiện lên mặt của quí vị như tia sáng mặt trời và lúc nào quí vị cũng tỏa sáng.“ Học làm đẹp và nhìn cái đẹp theo cách đó thì chúng ta sẽ là nguồn cảm hứng cho nhiều người khác. Và chỉ có một ý thức tập thể mới có thể làm thay đổi những trào lưu độc hại trong xã hội.

Mùa hè năm ngoái, khi tham dự khóa tu Wake Up Earth tại Làng Mai tôi đã trải nghiệm được sự trị liệu và có cái thấy thật sâu sắc về mối quan hệ giữa tôi và  nam giới. Đã 7 năm qua tôi thực tập chữa lành vết thương của tuổi thơ và tôi nghĩ là tôi đã tiến bộ rất nhiều. Trong khóa tu tôi chứng kiến được cảnh một thầy xúc động tới rơi nước mắt khi nghe sự chia sẻ của bà Christiana Figueres.  Tôi cảm động làm sao khi biết cái làm thầy ấy xúc động cũng là chính cái làm tôi xúc động. Tôi phát hiện ra là trên một bình diện nào đó trong tiềm thức, tôi đã cảm thấy có một hố sâu chia cách giữa tôi và nam giới. Trong những năm qua tôi đã có một quan niệm cơ bản là xem đàn ông gần giống như những con thú chỉ nghĩ tới hoặc bị thúc đẩy bởi tình dục. Có thể là họ còn tệ hơn thú tại vì ít nhất thú vật chỉ tích cực trong mùa giao phối, còn con nguời thì có thể quanh năm và bất cứ lúc nào. Cũng không phải là tôi chưa từng thấy một người đàn ông khóc, nhưng trong lúc đó có một cái gì đánh thẳng vào trong tâm tôi, giống như trong như trò chơi “Rà Mìn“, khi ta bấm chính xác vào cái ô vuông thì một góc của tâm tôi bỗng sáng rộng ra, để lộ cái mìn đen đầy gai nhọn của những tri giác sai lầm về nam giới. Nó đã khiến tôi đối xử thiếu tôn trọng với họ hoặc xem họ như những trò chơi thú vị. Còn không thì tôi giữ một khoảng cách lạnh nhạt hoặc dán cho họ cái nhãn“vượt ra ngoài sự hiểu biết“. Sau khóa tu tôi có cơ hội nói chuyện với thầy kia, thầy chia sẻ là khoá tu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với thầy, đã giúp thầy trong quá trình nhìn sâu và chuyển hóa những khó khăn trong việc xử lý năng lượng tình dục và trong sự tiếp xúc với nữ giới.

Trong khóa tu này một sự trị liệu bất ngờ nữa cũng đã xảy ra cho tôi. Đó là tôi nghe một anh thiền sinh chia sẻ sự thực tập Thiền Lạy liên quan tới năng lượng tình dục. Có một cái gì đó trong con người anh đánh động tôi mà tôi không thể nào diễn tả được. Có thể là do anh thực tập quá sâu sắc, hay là do tuệ giác và sự chuyển hóa anh có được trong khi thực tập riêng với các bạn nam mà không có sự hiện diện của nữ giới. Tôi cảm thấy mình đưọc trị liệu nhờ sự thực tập khiêm cung của anh và nhờ sự thực tập tập thể của nhiều người bạn nam. Sự thực tập Thiền Lạy hùng tráng này đã làm cho họ rất xúc động. Nó giống như một sự bắt đầu mới, một lời mời để làm mới lại quan niệm về năng lượng tình dục. Đây là sự xác nhận hùng hồn về tính tương tức. Trong khi thực tập để chữa lành cho mình thì đồng thời mình cũng chữa lành được cho người khác. Khi mình để hết tâm hướng về sự trị liệu và từ bi thì mình có thể chế tác ra những làn sóng năng lượng ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều người khác một cách thật bất ngờ.

Tôi nghĩ, sống trong một xã hội, chúng ta đã làm tổn thương nhau vì những quan niệm sai lầm về giới tính. Mình nghĩ mình hiểu đàn ông và đàn bà họ muốn cái gì, nhưng có thật là mình hiểu được không? Chúng ta đã làm tổn thương nhau. Những tri giác sai lầm về tình dục đã gây ra biết bao nhiêu là hiểu lầm về tình yêu và tạo ra khổ đau trong những mối quan hệ. Trong buổi pháp đàm cuối khóa tu tôi đã chia sẻ với nhóm về những vết thương của quá khứ và về tuệ giác này. Tôi cảm ơn các bạn thiền sinh nam vì họ đã thực tập quá giỏi. Tôi xin lỗi vì đã có cái thấy sai lạc về họ. Tôi đã không thấy đưọc phương diện tâm linh thiêng liêng của họ, sâu hơn nữa là tôi đã không xem họ như những con người đáng được tôn trọng. Nước mắt tôi chảy ra cuốn theo những cái thấy sai lầm, tôi cảm thấy tôi đã chữa lành được nhận thức của mình về nam giới. Tôi có thể làm mới lại sự thực tập tiếp xúc với nam giới một cách vô giới tính, và nhìn họ như họ thật sự là. Trong khi trị liệu những vết thương của quá khứ và những quan niệm sai lầm, tôi cũng chuyển hóa được tập khí tiêu cực của mình về nam giới.

Trong buổi tối cuối khóa tu Wake Up Earth, chúng tôi làm văn nghệ Be-in (có mặt cho nhau) với đề tài “Bảo vệ Đất Mẹ“. Tiết mục cuối là Bài ca Đất Mẹ. Tôi nghĩ là buổi tối sẽ chấm dứt một cách chậm rãi và bình an thì bỗng nhiên một ban nhạc đứng lên, xin mở âm thanh to hơn và mời vài người tình nguyện ra nhảy. Hầu như mọi ngươì đều đổ xô ra chật cả sân khấu. Sư cô Phú Nghiêm, một trong những người điều khiển chương trình, phải mời thiền sinh ngồi xuống trở lại tại vì như vậy thì không ai còn thấy được ban nhạc đâu nữa. Nhiều người miễn cưỡng về lại chỗ ngồi, nhưng những người khác thì vẫn ở lại vì thấy có ra một khoảng trống đã được mở ra phía sau sân khấu.

Lúc ban nhạc bắt đầu trình diễn thì nhịp jive của bản nhạc lại làm mọi người cảm thấy ngứa chân. Ngay sau đó, các thiền sinh bắt đầu chuyển động theo nhạc môt cách hạnh phúc và tự do. Thầy Pháp Lưu, một người điều khiển chương trình khác, nói “ Chào mừng các bạn đến với Club Làng Mai!“. Tôi thấy mãn nguyện, tôi có cảm tưởng như mình đang tham dự một buổi tiệc gia đình tại nhà. Có thể có người phản ứng tiêu cực hơn và nói,“ trong một tu viện Phật giáo mà lại có chuyện này à?“. Nhưng tôi lại thấy vui vì đó là một bằng chứng vững chắc cho người trẻ thấy là chúng ta có thể có vui chơi “trong sạch“ mà không cần tới rượu, ma túy và tình dục! Điều này có thể xảy ra vì suốt trong một tuần chúng tôi đã để thì giờ quán chiếu, tìm hiểu chính mình và người khác trong một môi trường có thể giúp chúng tôi nuôi dưỡng được lòng từ bi và sự hiểu biết.

Thật là tuyệt vời khi bạn có thể thật là bạn và có thể tiếp xúc với người khác mà không có thành kiến hay phải đeo mặt nạ.

Hơn bao giờ hết tôi đang khám phá ra tình yêu đích thực khi tôi được sống trong một môi trường không có sắc dục, một môi trường với lối tiêu thụ tự nhiên lành mạnh từ đoàn thực cho tới thức thực (hoàn toàn không có bạo động, bi kịch và thông tin quá tải). Được sống với những tri kỷ, những người có ước nguyện thương yêu tất cả chúng sinh, thật sự giúp cho tôi thực tập thương yêu đích thực một cách vững chãi. Thật là tuyệt vời khi bạn có thể thật là bạn và có thể tiếp xúc với người khác mà không có thành kiến hay phải đeo mặt nạ. Khi tôi học không bám lấy cái tốt hay xa lánh cái xấu của người khác thì đồng thời tôi cũng học được cách xử lý tính tốt và tính xấu của mình. Đó là sự khiêm cung, và nó nuôi dưỡng đức tính kiên nhẫn trong tôi. Tiếp xúc với người kia bằng tình thương, chăm sóc họ, giúp đỡ họ vô điều kiện cũng giải thoát cho chúng ta. Chúng ta có thể cảm thấy được hạnh phúc sâu sắc, sự bình an và niềm vui vì sự có mặt của người kia mà không cần sự xúc chạm thân thể nào.  

Tôi thật sự muốn khuyến khích người trẻ nên để thì giờ tìm hiểu thế nào là tình yêu đích thực trước khi lao vào một mối quan hệ. Trước tiên bạn hãy cho mình thời gian cần thiết để học hiểu và chăm sóc thân và tâm của mình. Mỗi ngày bạn có thể để thời giờ ngồi yên để nhận diện những gì đang xảy ra trong mình, làm cho thân tâm mình lắng dịu xuống hoặc mở lòng ra cho một vài cảm hứng đang nằm sâu trong tâm, bị che lấp bỏi công việc bận rộn hàng ngày.  Mặt khác, bạn cũng có thể ghi tên tham dự khóa tu trong 1 tuần hay lâu hơn. Khóa tu được tổ chức trong một môi trường có khả năng giúp bạn làm lắng dịu thân tâm cùng với sự thực tập giúp bạn nhìn sâu vào chính tự thân. Chỉ sau đó rồi thì bạn mới đủ tự do và tình thương để bắt đầu một mối quan hệ. Có như vậy thì mối quan hệ với chính bạn và với người khác, dù cho có tình dục hay không, cũng sẽ đươc viên mãn và thăng hoa.

Dịch từ bài viết “Beginning Anew to love“ của sư cô Chân Sinh Nghiêm (Wake Up Community 01.05.2017)

Tự do nội tâm – Hơi thở thứ 14

Hỏi:

Kính thưa Thầy, chúng con rất mến mộ đức trầm tĩnh của Thầy, nhưng con xin phép được hỏi Thầy: Thầy cảm thấy như thế nào khi có rất nhiều người nhìn chăm vào Thầy, quay phim, chụp hình và bị những luồng ánh sáng từ bóng đèn của máy chụp hình, quay phim chiếu thẳng vào mặt, v.v…Khi có người sùng bái Thầy, tôn kính Thầy thì Thầy cảm thấy như thế nào? Tâm của Thầy có bị ràng buộc, dao động không? Có khi nào Thầy cảm thấy bực bội, giận hờn, lạnh lùng khi phải đối diện với vấn đề này không? Thầy thực tập như thế nào đối với vấn đề danh vọng? Đứng trước những vấn đề như thế, làm sao Thầy giữ được tâm của mình cho bình lặng và vững vàng? Có khi nào Thầy thực tập thiền ôm với những người Thầy rất thân, gần gũi không?

Thầy:

Có chứ! (đại chúng cười ầm lên). Nếu mình là người mới xuất gia, mới được thọ giới, ban đầu có thể mình sẽ cảm thấy khó chú tâm, cảm thấy khó chịu khi có người tới lễ bái để bài tỏ lòng cung kính của họ đối với Tam Bảo. Nhưng đất nước của tôi đa phần dân chúng đều theo đạo Bụt; họ đã quen nhìn thấy hình ảnh của các thầy các sư cô trong chiếc áo tràng, hay chiếc áo nhật bình nâu. Khi họ thấy bóng dáng của các thầy và các sư cô trong chiếc áo tu màu nâu, họ liền tưởng nhớ đến đạo Bụt, đến đức Thế Tôn và họ luôn luôn bày tỏ lòng tôn kính đối với các thầy, các sư cô. Họ muốn được lễ bái trước mặt các thầy, các sư cô, nhất là đối với các vị đã tu hành lâu năm để cầu phúc. Nếu mình vừa mới được xuất gia, thọ lãnh giới pháp thì mình sẽ cảm thấy khó chịu, áy náy khi có người tới lễ bái và cung kính mình. Trong trường hợp này, ta không thể bảo họ:”Xin quý vị đừng làm như thế, Tôi nghiệp con. Con chỉ là một sư chú, một sư cô mới xuất gia thôi. Quý vị làm như thế thì con sẽ bị tổn phước.” Theo tôi, các sư chú, sư cô không nên từ khước như thế. Họ phải thực tập ngồi cho thật yên, theo dõi hơi thở và thiết lập chánh niệm vững chãi trước mặt mình. Họ nên thực tập quán tưởng để thấy rằng người ấy đang cung kính và lễ bái Bụt, Pháp và Tăng qua mình. Mình là một biểu tượng đại diện cho Tam Bảo. Là một sa di mới được thọ mười giới, quí vị phải học phép thực tập này ngay từ những ngày đầu mới xuất gia. Đối với Phật tử cư sĩ, lễ bái Tam Bảo là để cầu Tam Bảo gia hộ, che chở cho thân tâm họ, gia quyến của họ được an ổn, đời sống được hạnh phúc. Họ lễ bái không phải để tôn vinh cái bản ngã của mình mà để bày tỏ niềm cung kính đối với Bụt, Pháp và Tăng nơi mình mà thôi. Nếu nghĩ rằng người ta lễ bái, cung kính cái bản ngã của mình, thì lầm rồi vậy. Đời tu của ta có thể bị hư hỏng nếu ta có những ý nghĩ sai lầm như thế. Ngay từ giây phút mới xuất gia, sư chú hoặc sư cô phải học cách ngồi yên, thiết lập sự vững chãi, thảnh thơi và cứ mặc nhiên cho người ta lễ lạy Tam Bảo qua cái thân tướng người tu của mình. Cũng giống như quý vị đứng nghiêm trang chào lá cờ Mỹ, hẳn nhiên không phải quý vị đứng chào cái mảnh vải đang bay phất phới trên cái cột, mà thật sự quý vị đang chào, đang tưởng niệm đến đất nước, con người, các anh hùng và lịch sử của đất nước quý vị, có phải vậy không? Vậy chiếc áo nâu sòng cũng chỉ là một biểu tượng như lá cờ mà thôi. Nếu bị kẹt vào tướng, quý vị sẽ đánh mất bản chất đích thực của mình.

Tôi luôn thực tập an trú vững chãi trong chánh niệm và bảo hộ tâm ý mình để tâm hành tham lam danh vọng không động được tới tôi. Chỉ khi nào mình bị thất niệm thì mình mới bị mất mình. Nếu quý vị an trú vững vàng trong chánh niệm, có khả năng gìn giữ và hộ trì tâm ý, thì danh vọng, uy quyền sẽ không động được tới quý vị.

Tuy nhiên không phải thầy nào, sư cô nào cũng làm được điều đó một cách dễ dàng. Có rất nhiều thầy và sư cô bị vướng vào cạm bẫy của danh lợi, của uy quyền, của sự hưởng thụ,… Họ trở thành những nạn nhân của nếp sống thỏa mãn ngũ dục, đời tu của họ đã bị hư hỏng, tâm Bồ Đề bị hủy hoại. Nhìn lại chính mình, tôi thấy tôi chưa bao giờ bị vướng vào những thứ ấy. Hạnh phúc của tôi được làm bằng những yếu tố khác như yếu tố của an lạc, vững chãi, hiểu biết, thương yêu và tự do. Khi có điều gì vừa bắt đầu trở thành chướng ngại, làm vướng bận thân tâm mình, tôi có khả năng quán chiếu, buông bỏ liền lập tức và làm được một cách dễ dàng. Tôi gọi đó là sự thực tập thả bò. Buông bỏ được những con bò của danh lợi, uy quyền, nếp sống hưởng thụ dục lạc… đạt được tự do và tình thương lớn là sự thắng lợi lớn nhất của người tu. Ví dụ tôi muốn thành lập một trung tâm tu học và công việc này có thể là một công việc cần thiết. Nhưng nếu trong quá trình xây dựng trung tâm tu học, xây dựng tu viện mà tước đoạt mất niềm vui, hạnh phúc và sự thảnh thơi của tôi thì tôi phải buông bỏ. Tôi không cần có một trung tâm tu học nếu công việc xây dựng ấy tước đoạt mất niềm an lạc, hạnh phúc và tự do của mình. Điều đó không có nghĩa rằng tôi thấy bại, không thành công trong công trình xây dựng một trung tâm tu học, mà vì tôi thấy rằng buông bỏ là một thắng lợi, nghĩa là tôi đã gìn giữ, bảo hộ được tự do của mình. Đó là gia tài quý giá nhất của người tu. Đối với danh vọng cũng vậy. Quý vị có thể đánh mất tự do và hạnh phúc nếu quý vị bị vướng vào danh vọng. Nhìn vào cách sống của một người xuất gia hay tại gia, ta có thể biết ngay được người đó đang có tự do hay không. Dầu quý vị là một nhà triệu phú hay một ông chủ của một công ty lớn hoặc đang giữ một chức vị cao trong chính phủ, quý vị vẫn không thể gọi là người hạnh phúc nếu quý vị không có tự do nội tâm và không gian chung quanh. Tự do nội tâm và tình thương chính là chất liệu làm cho đời sống chúng ta trở nên hạnh phúc thật sự, chứ không phải uy quyền, danh lợi, địa vị, nói cho đủ là ngũ dục: tài, danh, sắc, thực và thụy.

 Đây là những điều ta sẽ được học trong phép quán niệm hơi thở thứ mười bốn của kinh Quán Niệm Hơi Thở:”Tôi đang thở vào và quán chiếu về tính không đáng tham cầu của vạn pháp. Tôi đang thở ra và quán chiếu vê tính không đáng tham cầu của vạn pháp.” Khi đi tôi trân quý và tận hưởng từng bước chân của tôi. Khi thở vào thở ra, tôi tận hưởng từng hơi thở vào ra của tôi. Mỗi khi ngồi uống trà với đệ tử, tôi tận hưởng từng chén trà tôi đang uống và trân quý sự có mặt của các đệ tử của tôi. Tôi biết tiếp xúc và thưởng thức cái đẹp nhiệm mầu của trời xanh, mây trắng, núi rừng. Tôi sống được như thế là nhờ tôi có tự do và biết trân quý tự do. Là một người tu, một người thầy, tôi phải có tự do; nếu không, tôi không thể làm thầy được. Nếu tôi bị ảnh hưởng hay vướng vào sự tôn vinh, danh vọng và tài vật thì tôi không xứng đáng là thầy của các đệ tử của tôi.

Đề tài này không phải để chúng ta bàn luận mà chính là để chúng ta thực tập nhìn sâu và tự mình khám phá. Tôi hy vọng tất cả chúng ta có thể thực tập theo tinh thần này. Nếu chúng ta không có tự do nội tâm, nếu còn bị ràng buộc bởi những con bò của danh vọng, uy quyền và tài vật, chúng ta sẽ không bao giờ đạt tới được chân hạnh phúc, không bao giờ đạt tới được tự do lớn. Điều này được áp dụng cho tất cả mọi người trong Tăng thân.

Thiền sư Nhất Hạnh

Trích trong sách”Hơi thở nuôi dưỡng Hơi thở trị liệu“ Áp dụng Kinh Quán Niệm Hơi Thở (Anapanasati Sutra) vào đời sống hàng ngày. Thầy Chân Pháp Niệm dịch từ bản tiếng Anh”The Path of Emancipation”, phuongnambook, Hồng Đức xuất bản.

Bước tới thảnh thơi

(Cảm nghĩ về khoá tu Xuất Gia Gieo Duyên)

Chúng con là:
Gia đình Cá Ông rất to
Gồm những sư chú sư cô vừa mới thọ (Giới Sadi, Sadini)
Vượt qua những tháng ngày mưa giông nắng gió
Đã về đã tới bây giờ ở đây tại Waldbröl
Được tiếp nhận gia tài tâm linh vô cùng giàu có
Với ước mơ hoài bão thật to
Nguyện tu tập tinh cần chuyển hóa hết âu lo
Bước tới thảnh thơi vô cùng tự do
Bằng chánh niệm trong từng bước chân nho nhỏ
Thở nhẹ và sâu, biết mỉm cười với những niềm đau khốn khó
Dẫu biết trên đường đời biển cả sóng to
Luôn nguyện dìu nhau bước qua bao tháng ngày gian khó
Đi như một dòng sông, hiểu và thương sáng tỏ
Chỉ cần quay về nương tựa Bụt, Tổ, Thầy để thở
Là đã có đường đi rồi con không còn lo sợ

Nhân duyên đưa con đến khoá tu xuất gia gieo duyên là vì cuối năm ngoái gia đình con liên tiếp đối diện những mất mát đau thương về tinh thần vì sự ra đi đột ngột của những người thân. Khi chứng kiến cảnh gia đình mình đương đầu với bệnh tật và cái chết của người thân trong nỗi hoang mang, sợ hãi, bất lực đã làm con chấn động rất nhiều. Cả nhà con chênh vênh và suy sụp, những nhân duyên nghiệp quả biểu hiện cũng chưa đủ làm cả nhà thức tỉnh. Người mất thì cũng đã mất, người sống thì lại tiếp tục quay trở lại với những bộn bề hối hả của cuộc sống thường nhật, không có một điểm tựa tâm linh nào để quay về nương tựa chăm sóc vực dậy tinh thần sau cơn mê. Ý thức được sâu sắc những thực trạng khổ đau đó, con đã quyết tâm phải thu xếp để tham dự cho bằng được khóa xuất gia gieo duyên tại EIAB Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu Đức năm nay để gieo duyên cho gia đình huyết thống của mình được tiếp nhận gia tài tâm linh của chư Bụt và Bồ Tát.

Và chúng con đã về đã tới, bây giờ ở đây với một gia đình tâm linh rất lớn, từ bốn phương trời và từ khắp năm châu, không phân biệt màu da tôn giáo, tuổi tác, cùng về đây xây đắp yêu thương. Giữa vòng xoáy hối hả của cuộc sống, khi những cơn sóng phiền não, âu lo cho gia đình, công việc, học hành, mưu sinh, cơm, áo gạo, tiền luôn bủa vây chúng con, thì giờ phút được dừng lại, ngồi thật yên, lắng lòng lại mới thấy trân quý biết bao. Chúng con được tập khí công mỗi sáng cùng nhau, ngồi thiền, đi thiền hành, nghe pháp thoại, học giới luật và uy nghi, uống trà, ăn cơm, chơi đá cầu, đi dạo trong rừng, làm vườn, lau nhà, rửa chén, ăn kem, đi hái cherry, buông thư… cùng nhau. Chúng con còn được cùng giúp nhau đắp y, sửa áo, cùng giúp nhau cạo tóc, cùng khóc cùng cười với nhau… Cái cảm giác quây quần bên nhau ấm áp như một gia đình có các sư cô chú anh chị lớn lẫn những sư em con cháu nhỏ sao mà nuôi dưỡng quá chừng, cùng yểm trợ nâng đỡ cho nhau hết lòng và luôn có mặt trọn vẹn trong từng hoạt động thời khóa thực sự là gia tài vô giá mà chúng con đã may mắn được tiếp nhận trong khóa tu đặc biệt này.

Không khí hân hoan háo hức của buổi lễ xuất gia đã rộn ràng trong lòng chúng con khi vừa tới Viện Phật Học, chúng con được đi thử y, áo tràng và tập dượt, xung quanh quý Thầy, quý Sư Cô cũng bận rộn chăm sóc chuẩn bị đêm ngày cho buổi lễ, đặt tên pháp tự, sắp xếp mọi thứ thật trang nghiêm. Không khí rộn ràng như một ngày vui lớn của Viện Phật Học, một khoá tu đặc biệt quá chừng vì sẽ có tới 49 sư chú và sư cô mới toanh!

Đến ngày xuất gia chính thức, chúng con ai cũng bồi hồi xúc động, không khí linh thiêng đặc biệt của buổi lễ truyền cho chúng con rất nhiều năng lượng thương yêu khi quý thầy, quý sư cô vô cùng xúc động và nuôi dưỡng khi chúng con được thực sự biểu hiện màu nhiệm trong lòng tăng thân. Khi tiếng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm (Namo Avalokiteshvara) của đại chúng vang vọng trong thiền đường, quý sư cha, sư mẹ, quý thầy, quý sư cô bước xuống rưới nước cam lồ tịnh thủy và cắt tóc cho giới tử, trong không khí thiêng liêng, mầu nhiệm đó, con đã không ngăn được những dòng nước mắt cứ chảy dài nức nở không ngừng. Ngay lúc ấy, bỗng con cảm nhận một bàn tay nhẹ nhàng ấm áp đặt nhẹ lên mái đầu con, ấm áp êm dịu như một biển tình thương lan tỏa khắp thân tâm khiến con thấy nuôi dưỡng và hạnh phúc vô cùng. Bàn tay từ bi của Bụt, của Tổ, của Sư Ông, của quý thầy, quý sư cô thương yêu tin tưởng và trao truyền cho chúng con những gia tài tâm linh vô giá, nâng đỡ dìu dắt chở che cho chúng con trên con đường tu tập khiến những lọn tóc cứ buông nhẹ cuốn đi những âu lo, muộn phiền.

Hình ảnh Viện Phật Học qua một đêm bỗng chốc tràn đầy BIỂN áo nâu cạo sạch mái tóc thật là đẹp và nuôi dưỡng 🙂 Những sư chú, sư cô vừa được cạo sạch mái tóc ung dung tự tại, đẹp rạng ngời như những em bé thơ ngây đang ríu rít hân hoan chào nhau bằng tên pháp tự mới. Ở ngoài đời, mỗi ngày thức dậy chúng con đều lo lắng đứng trước gương và tủ quần áo để chọn lựa hôm nay mặc gì, tóc tai để kiểu nào, áo quần kết hợp ra sao, mỹ phẩm phụ kiện thế nào.

Từ ngày được xuất gia, được học sâu về ý nghĩa nếp sống thiểu dục tri túc của người xuất sĩ thực sự nuôi dưỡng chúng con rất nhiều. Một màu áo nâu giản dị khiêm cung, cạo sạch mái tóc nhẹ cả mái đầu, mặc áo của người tu rất thoải mái, dễ chịu, rộng rãi, thảnh thơi. Chúng con còn được thực tập đi đứng nằm ngồi uy nghi trong chánh niệm bằng những bài thi kệ vô cùng nuôi dưỡng. Thầy viện trưởng còn ân cần từ bi chỉ dạy chúng con từng ly từng tí qua cách gấp áo tràng khi đứng sao cho đẹp, cách đi lên xuống cầu thang và đứng lên ngồi xuống như thế nào với tà áo tràng dài cho có uy nghi, cách thực tập ôm bình bát đi khất thực làm sao để nuôi dưỡng bồ đề tâm của mình. Nhìn các sư anh, sư chị, sư em với diện mạo mới đều tràn đầy từ bi tươi vui hạnh phúc như anh em một nhà, ai cũng nhẹ nhàng thanh tao quá đi. Nhờ vậy con mới thực sự cảm nhận sâu sắc được vẻ đẹp đích thực không phải từ những trang sức bên ngoài mà từ chính nếp sống chánh niệm, lành mạnh. Có hiểu, có thương qua từng nụ cười dịu dàng, với ánh mắt thương yêu chân thành, chắp tay chào khiêm cung, từng bước chân nhẹ nhàng, những lời nói nuôi dưỡng, từng cử chỉ hành động trong chánh niệm đều toát lên vẻ uy nghi rất đẹp của người tu.

Những tháng ngày tu học nuôi dưỡng rồi cũng qua, kết thúc khóa tu gieo duyên chúng con phải xả y để trở lại đời sống thường nhật. Dù chỉ mới được xuất gia gieo duyên một thời gian ngắn, nhưng ai trong chúng con cũng đều được nuôi dưỡng rất nhiều hạt giống thương yêu và hiểu biết, nên giờ phút phải cởi y áo trả lại cho đại chúng, chúng con ai cũng nghẹn ngào không nỡ rời xa. Hình ảnh xúc động nhất là cảnh các sư chú, sư cô vừa cởi y vừa khóc nức nở trong tiếng niệm con về nương tựa Bụt, con về nương tựa Pháp, con về nương tựa Tăng của toàn thể đại chúng. Ai cũng lưu luyến không muốn trả lại tấm Áo Giải Thoát linh thiêng màu nhiệm mà chúng con vừa mới được tiếp nhận. Chúng con có phước báu lớn được xuất gia gieo duyên tu học, được cảm nhận sâu sắc sự linh thiêng màu nhiệm của con đường giải thoát khi được về nương tựa Bụt, Tổ, Thầy. Cảm giác giờ đây phải rời xa mái nhà tâm linh của gia đình xuất gia khiến chúng con vô cùng bồi hồi xúc động, vì quá nhiều tình thương yêu, chăm sóc, ân cần, chỉ dạy đầy nuôi dưỡng những ngày qua.

Con ý thức rằng khi cạo sạch mái tóc trong khoá tu gieo duyên này mình không chỉ hiến tặng mái tóc dành tặng cho các bệnh nhân ung thư mà mình còn đang hiến tặng rất nhiều năng lượng bình an, chánh niệm, thương yêu và an lạc cho mọi người. Chính sự thực tập chánh niệm của chúng con đã là đóa hoa tươi thắm nhất để hiến tặng cho cuộc đời. Cám ơn Bụt, Tổ, Sư Ông đã sinh ra con thêm một lần trong đời sống này. Được biểu hiện trong lòng tăng thân xuất sĩ và học nếp sống phạm hạnh của người xuất gia là kỷ niệm nuôi dưỡng vô cùng sâu sắc không thể nào quên trong cuộc đời con.

Sư Ông ơi, ngày hôm nay chúng con hạnh phúc lắm ạ. Đàn Cá Ông của Sư Ông đã và vẫn đang tiếp tục được biểu hiện màu nhiệm trong lòng tăng thân. Chúng con nguyện sẽ đi như một dòng sông và tiếp tục nuôi lớn sự thực tập của mình dù ở bất cứ ở đâu bất cứ lúc nào và làm bất cứ việc gì.

Con trân quý và biết ơn sâu sắc,

Sư cô Biển Tĩnh Tại

EIAB thương yêu, Waldbröl tháng 6 năm 2025

Xác nhận giá trị của con người

Vấn đề giá trị con người là vấn đề then chốt cho sự sống. Chừng nào vấn đề này chưa được giải quyết thì chừng ấy con người chưa thể nào an tâm lập mệnh được. Giải quyết được vấn đề này thì con người mới có thể có được một lập trường và một thái độ dứt khoát với vấn đề giải phóng của chính mình.
Giá trị con người là bao lăm và con người có thể làm gì với tất cả những khả năng sẵn có? Yếu tố quyết định mọi phương diện của sự sống nằm ở bản thân con người hay ở một nơi nào khác? Đó là những câu hỏi căn bản. Con người có thể đạt đến hòa bình và hạnh phúc được, mọi người đều tin như thế và đều muốn tin như thế. Nhưng làm thế nào để đạt đến? Dùng phương tiện nào, và tin tưởng ở đâu?

Từ hồi cổ sơ, nhân loại đã sống trước những sự đe dọa của thiên nhiên. Khiếp sợ vì những hiện tượng nước, lửa, sấm chớp và con người đã sớm tùng phục các lực lượng siêu nhiên mà họ tưởng tưởng luôn luôn ẩn nấp ở khắp nơi khắp chốn. Sự cúng vái khẩn cầu mong giáng phúc trừ họa là những công việc biểu hiện cho sự tùng phục hoàn toàn đó: con người tự đặt mình dưới sự che chở của ma quỷ thần thánh, cảm thấy bao nhiêu sự thành bại hư nên của mình đều do thần thánh quyết định. Hễ thần thánh bằng lòng thì nên, mà thần thánh giận dữ thì hư. Thế cho nên, tư tưởng ”hối lộ” phát sinh, con người tưởng rằng chỉ cần một ít lễ vật nào đó thôi để cúng tế cũng có thể làm đẹp được lòng thần thánh.
Khi đã công nhận mọi việc ở đời đều do thần thánh quyết định thì con người phải luôn luôn sợ hãi, không dám tự quyết định một công việc gì. Do đó phát sinh ra sự bói toán, cầu mong lời dạy của thần minh. Giá trị con người, ở đây, không có bao lăm vậy.

Kịp đến khi trí tuệ phát triển, con người nhờ những suy luận triết học mà đi đến một quan niệm tinh vi hơn về tín ngưỡng. Tư tưởng đa thần dần dần nhường chỗ cho tư tưởng nhất thần, và thay vì tin tưởng ở những lực lượng tạp đa, người ta trở lại tin tưởng một vị thần minh duy nhất toàn tài toàn trí, xếp đặt tất cả mọi việc ở đời. Kẻ nào được ân huệ của thần minh sẽ có hạnh phúc và sẽ được giải phóng khỏi kiếp đau thương. Ở đây con người không còn làm công việc ”hối lộ” một cách buồn cười như trước nữa, vì đã biết đến những đức hạnh cần phải có. Tuy nhiên, tâm trí con người vẫn được đặt ở một thế giới xa xăm nào và con người khi ngưỡng cầu thần linh vẫn hoàn toàn tin tưởng rằng chỉ có một vị thần minh mà mình đang nguyện cầu mới có thể ban phúc lành và cứu vớt mình ra khỏi cảnh đau thương sầu khổ. Giá trị con người ở đây cũng không được cao hơn mấy tí. Nếu tất cả đều do sự sắp đặt của thần minh thì con người, với một khối óc và hai bàn tay, chẳng có một địa vị nào đáng kể trong cuộc sống.

Ngày mà khoa học xuất hiện, nhân loại đã xoay hướng tin tưởng một phần nào. Con người không ngửa mặt lên trời để trông ngóng nữa mà để hết tin tưởng vào nàng tiên khoa học đang trổ nhiều ngón nhiệm mầu. Nhiều kẻ đã sẵn sàng phủ nhận tất cả, để chỉ còn trông mong và tin tưởng ở khoa học. Nhưng khoa học tiến thì kỹ thuật cũng tiến: xã hội Tây phương cơ khí hóa xong thì đến lượt xã hội Đông phương. Vấn đề sản xuất, vấn đề tiêu thụ làm nảy sinh cuộc tranh chấp toàn diện. Con người trở thành máy móc một phần nào khi bị sống trong xã hội máy móc: vấn đề tranh chấp kinh tế làm phát sinh chiến tranh. Chiến tranh đòi hỏi vũ khí, và khoa học bị xô ngay vào hướng sản xuất dụng cụ giết hại. Bom nguyên tử ra đời là mối đe dọa khủng khiếp.
Những phát minh mới nhất hiện nay của khoa học đang bị áp dụng vào cuộc giết người. Khoa học đã trở thành một con dao hai lưỡi vô cùng nguy hiểm. Đó là một quái vật do con người nuôi dưỡng, nay trở lại đe dọa con người. Chỉ cần một ít lỡ lầm thôi, con người sẽ phải diệt vong vì nó.
Ruồng bỏ khoa học là một chuyện điên rồ, bởi vì khoa học có thể phụng sự loài người đắc lực. Nhưng mà tin theo nó như tin theo một thần quyền thì quả con người đã rất sai lầm. Khoa học chỉ là sản phẩm của một lý trí hướng theo chiều hắc ám dục vọng. Tin tưởng ở nó một cách quá độ, ấy là con người đã quên mình, nghĩa là đã phủ nhận tất cả những giá trị cao đẹp mà bản thân mình sẵn có.

Đi song song với những kẻ mê tín khoa học, còn có những kẻ mê tín ở những nguyên tắc và ở những tổ chức tốt đẹp. Trong xã hội ngày nay, con người đã có những nguyên tắc đẹp đẽ rộng rãi để bảo đảm quyền lợi và tự do. Con người tự hào rằng đã có những tổ chức hoàn bị, hợp lý. Thế nhưng có bao nhiêu nguyên tắc và bao nhiêu tổ chức tốt đẹp đi nữa, con người vẫn chưa thấy tiến bộ được bước nào trên đường hạnh phúc.
Người ta ỷ rằng đã có những nguyên tắc đẹp và những tổ chức đẹp, và tưởng rằng cứ áp dụng những nguyên tắc và những tổ chức ấy là có thể thành công. Không! Sự thật đã chứng minh rằng chỉ có nguyên tắc và tổ chức mà thôi thì vẫn chưa đủ. Để thực hành và áp dụng chúng, phải có những con người xứng đáng là con người mới được. Một bản hiến pháp đâu có đủ khả năng bảo đảm cho tương lai một nước! Bảo đảm cho sự thực hiện hiến pháp ấy, cố nhiên phải là những nghị viên quốc hội xứng đáng, có tài năng, có đức hạnh. Ở đây, con người lại bị bỏ quên, và giá trị con người thật cũng đã bị hạ thấp.
Tin tưởng ở nguyên tắc, ở tổ chức như thế cũng chẳng khác gì tin tưởng ở vật chất vô linh. Ngoài ra, con người nhẹ dạ đôi khi cũng dễ dàng tin tưởng ở văn từ và ngôn ngữ. Sau trận đại chiến, những hiến chương, những tuyên ngôn tung ra cùng khắp. Nào tự do, nào bình đẳng, nào giải phóng, nào hạnh phúc, độc lập… bao nhiêu danh từ đẹp đẽ như bình minh ngoài mặt biển, được đưa ra. Cường quốc nào trên thế giới cũng muốn làm đàn anh, làm ân nhân, làm cứu tinh của nhân loại. Nhưng cuối cùng, những trò rối ”hữu danh vô thực” kia dần dần gieo nghi ngờ cho quần chúng, và theo một nhà văn nọ ”bao nhiêu truyền đơn biểu ngữ, bao nhiêu tấm bảng tung ra với những danh từ tốt đẹp rốt cuộc lại vẫn không hàn gắn lại được vết thương quá ư dai dẵng mà lịch sử đã mệnh danh là hoang mang”.

Thật là bi đát.

Tất cả những đau thương của nhân loại, thực ra, đã do ở những tin tưởng lạc lầm. Từ sự tin tưởng thần minh cho đến sự tin tưởng ở khoa học, ở nguyên tắc tổ chức, ở danh từ đẹp đẽ, con người quả thực đã ít nhiều phủ nhận giá trị mình. Con người đã tự quên mình để đi tìm tìm cầu hạnh phúc ở những lực lượng ngoài con người.
Bao nhiêu thành bại nên hư của con người phải là do con người tạo nên. Con người định đoạt số phận mình. Con người chịu trách nhiệm hoàn toàn vì sự giải phóng tự thân. Xã hội tốt đẹp chăng, đời sống có hạnh phúc chăng là do ở con người – Con người quả có một giá trị trên hết. Thế mà lâu nay con người đã bỏ quên con người! Con người không được săn sóc, un đúc, đào luyện. Trong lúc con người càng ngày càng xấu xa, người ta vẫn tưởng rằng con người có thể có hạnh phúc nhờ các lực lượng ngoài con người.
Trong cuộc sống, con người đã quan niệm rằng vấn đề quan trọng là trao đổi khí cụ. Nhưng bây giờ đây, khí cụ đã sắc bén, và con người đang sợ khí cụ của con người. Khí cụ, người ta bảo, đã tinh xảo lắm rồi. Vậy bây giờ là lúc phải đào tạo những tay thợ giỏi để xây dựng hạnh phúc bằng những khí cụ kia.
Địa vị và giá trị con người thật đã quá rõ rệt. Không trông mong ở những giá trị ngoài con người, thì ta phải nhận thức những giá trị ấy để mà hành động. Ý thức được giá trị mình, vai trò mình, con người phải lo tự đào tạo, tự chuyển lấy nghiệp mình. Bao giờ nhờ sự chuyển nghiệp mà con người trở thành tốt đẹp thì bấy giờ xã hội vũ trụ cũng trở thành tốt đẹp. Y báo và chính báo vốn là hai phương diện của nghiệp báo: có nhận thức giá trị của con người, ta mới có tin tưởng ở năng lực chuyển nghiệp của mỗi chính ta. Đào tạo con người là công việc cấp bách nhất của thời đại vậy.

Trần Thạc Đức

Trích trong sách Phật Giáo Việt Nam và hướng đi nhân bản đích thực của Trần Thạc Đức do Lá Bối xuất bản năm 1967 tại Saigon, Việt Nam

Trời còn để có hôm nay

Nếu 3 năm trước sư cô Chân Không và sư cô Định Nghiêm không đến Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu tại Đức? Nếu không có một động lực gì khiến gì anh chị em chúng ta vượt qua được sự e dè để mở lòng ra với quí sư cô, thì Tăng Thân Tiếp Hiện Cư Sĩ Người Việt chúng ta làm sao có được ngày hôm nay? Nếu…và nếu… Đó hình như là những duyên may kỳ lạ mà Bụt, chư Tổ và Thầy đã sắp xếp sẵn cho chúng ta.

Anh chị em chúng ta luôn mơ ước có được một khóa tu dành riêng cho Tiếp Hiện người Việt tại Đức.  Các bạn Tiếp Hiện người Đức đã làm được điều đó, mỗi năm họ đều tổ chức một khóa tu Tiếp Hiện cho người Đức vào tháng 10 tại EIAB. Chúng ta rất “thèm“ được như các bạn Đức và … ước mơ đó đã trở thành hiện thực.

Với sự yểm trợ hết lòng của sư cô Chân Không và nhất là của sư cô Định Nghiêm, một khóa tu dành cho Tiếp Hiện người Việt Châu Âu đã được tổ chức vào tháng 06.2024 tại EIAB Đức. Khóa tu rất thành công và tạo được nguồn cảm hứng cho tất cả cư sĩ cũng như xuất sĩ. Sư cô Định Nghiêm đã khuyến khích, vận động, thu xếp cùng quí sư cô Xóm Mới Làng Mai để tổ chức một khóa tu dành cho các Tiếp Hiện người Việt trên khắp thế giới vào tháng 05.2025 tại Xóm Mới.

Lúc đầu chúng ta nhận thấy một vài điều kiện không thuận lợi lắm cho khóa tu, như vào tháng 03.2025 (nghĩa là trước khóa tu Tiếp hiện 2 tháng), Đại Giới Đàn được tổ chức tại Làng Mai Pháp. Nhiều vị Tiếp Hiện cư sĩ về tham dự Đại Giới Đàn , làm sao các bạn có thể tham dự được khóa tu Tiếp Hiện 2 tháng sau đó? Chúng ta hồi hộp lắm, cứ lo là nếu những anh chị em Tiêp Hiện ở các nước ghi danh quá ít thì khóa tu phải bị hủy bỏ chăng? May là sư cô Sắc Nghiêm, người phụ trách công việc ghi danh, đã trấn an trước: Dù ít người ghi danh đi nữa thì khóa tu cũng sẽ được tổ chức. Càng ít người thì càng ấm cúng hơn.

Cuối cùng thì số người Việt ghi danh ít thật: 24 người. Nhưng có điều rất vui là hơn 10 người Tây phương cũng xin tham dự khóa tu với chúng ta, dù họ chỉ được nghe qua thông dịch. Xin cảm ơn quí anh chị em người Tây phương đã hợp tác và yểm trợ cho Tiếp Hiện người Việt.

Tuy số người tham dự khá ít nhưng khóa tu lại rất thành công. Chúng ta có nhiều thì giờ, có nhiều không gian để chơi với nhau, gần gũi nhau hơn, chia sẻ những gút mắc trong lòng để hiểu và thương nhau hơn. Nhất là chúng ta nhận được tình thương và sự chăm sóc hết lòng của quí sư cô Xóm Mới.

Sự có mặt của chị Anh Hương, người chị lớn của Dòng Tu Tiếp Hiện, người Tiếp Hiện đầu tiên được truyền giới tại Tây phương sau 15 năm kể từ khi Thầy truyền giới cho 6 vị Tiếp Hiện đầu tiên ở Việt Nam vào năm 1966, là một niềm khích lệ lớn cho chúng ta. Sự thực tập, lời chỉ dạy đầy từ bi của chị là một tấm gương cho đàn em sau này. 

Những lần ngồi chơi với nhau, tâm sự với nhau như người thân trong một gia đình là những giây phút hạnh phúc nhất. Nguồn cảm hứng lại được tưới tẩm và sư cô Định Nghiêm tuyên bố: Năm 2027 sẽ có một khoá tu Tiếp Hiện cho người Việt ở khắp thế giới tại EIAB Đức. Có phải trong tương lai, mỗi năm chúng ta sẽ có được một khóa tu dành cho Tiếp Hiện cư sĩ người Việt khắp nơi trên thế giới?

Sau khóa tu, một vài anh chị em đã chia sẻ cảm tưởng của mình với những lời lẽ thật cảm động và tràn đầy thương yêu.

Hải Yến, Chân Đức Từ Mẫn (TT Cam Lộ Tịnh Thủy, Đức) chia sẻ:

Xóm Mới ngày đoàn tụ

Vậy là đã thấm thoát gần chín năm con mới trở về lại Xóm Mới. Ngày ấy, lần đầu đến làng con đi một mình, bơ vơ lạc lõng vì không có hướng đi trong cuộc đời…Giờ đây, con đã tìm được con đường nhờ có Bụt, có Tổ, có Sư Ông và có tăng thân luôn đưa lối nâng đỡ cho con. Con trân quý và biết ơn khi được cùng các Anh Chị Em Tiếp Hiện về dự khoá tu vào ngày rằm tháng 4, mùa Bụt đản sinh an lành ấm áp yêu thương.  

Hạnh phúc vô cùng khi chúng con được nuôi dưỡng trong tình huynh đệ và được ôm ấp trọn vẹn trong vòng tay tăng thân, được mở lòng chia sẻ xoá tan những mặc cảm thế hệ và khoảng cách địa lý, chỉ có mặt trọn vẹn cho nhau trong phút giây hiện tại…

Hạnh phúc là khi chúng con được cùng nắm tay nhau đi thiền hành trên đồi mận xanh mát giữa gió xuân, hoa cỏ và nắng ấm chan hòa, hay khi cùng ngồi đốt lửa trại uống trà bên nhau ở chòi tình huynh đệ, hay đơn giản chỉ là cùng cắn hạt hướng dương chung với nhau thôi mà cũng hạnh phúc ngập tràn 🙂

Sư Ông ơi, chúng con rất hạnh phúc vì đã có mặt trọn vẹn cho nhau để cùng thở cùng cười và cùng thương thôi. 

Trăng sao còn đó rạng ngời tương lai…
Măng non Tiếp Hiện“

Thuận Hornig, Wahre  Quelle des Mitfühlenden Handelns (Bernburg) viết:

Bernburg, 26-05-25

Gia đình Tiếp Hiện Thương yêu!

Con nhận thấy rằng mình vô cùng may mắn, hạnh phúc và biết ơn được tham dự Khóa Tu Tiếp Hiện vừa qua tại Làng Mai.

Từ khi bước chân ra khỏi nhà và đặt lại bàn chân vào nhà là cả một hành trình quý giá. Có thể không biết bao nhiêu trang giấy mới có thể tả hết nổi những niềm vui, hạnh phúc khi con được tắm mình trong sự bảo bọc, nâng đỡ, đầm ấm, thân thương không biên giới của toàn thể Tăng Đoàn. Con đã được nuôi dưỡng và phần nào đó lớn lên bằng rất nhiều tình thương của các sư cô: Sắc Nghiêm, Định Nghiêm, Tuệ Nghiêm, SC Sùng Nghiêm v.v.. và đặc biệt là Ni trưởng Chân Không đã dành vô vàn yêu thương cho chúng con bằng sự hiện diện vô cùng tươi mát, mạnh khỏe và sống động mặc dù tuổi đã rất cao và sức cũng có hạn. Sư cô Chân Đức, Đoan Nghiêm đã đem đến cho con nguồn cảm hứng và ý chí để thắp sáng Tâm Bồ Đề trong con.

Con thực sự được sống và cảm nhận được tình huynh đệ quý báu của chị Anh Hương và nhất là của chị Trang anh Tường từng ly từng tý khiến cho con rất cảm động và con xin được khắc nhớ học tập giữ gìn và tiếp tục trao truyền trong phạm vi có thể.

 Con cũng vô cùng hạnh phúc và trân quí khi em Hải Yến nắm tay con và nói sao lại để em đi một mình trong sự nũng nịu vô cùng dịu ngọt mà con chưa bao giờ được trải nghiệm. Tất cả những hoa trái của khóa tu sẽ góp phần cho con được tiếp nối và sẽ tiếp nối một cách tốt đẹp hơn nữa…

Trân quý và biết ơn sâu sắc

Hòa Mai, Chân Đại Tin Tấn (tăng thân Sao Mai Việt Nam), chia sẻ:

Con xin thương mến chào đại gia đình CTT “ Chỉ thương thôi “ .

Hôm nay đã là ngày thứ mười sau khi kết thúc khóa tu tiếp hiện nói tiếng Việt ở Xóm Mới – Làng Mai Pháp, nhưng dư âm và tình thương cũng như năng lượng của khóa tu vẫn còn nguyên vẹn trong con, một khóa tu đã để lại nhiều niềm thương nhớ, năng lượng tái tạo tình thương yêu, quí trọng trong mỗi con người có mặt bên nhau.
Con thấy hạnh phúc và phước báu đã cho con có mặt trong khóa tu này, vì lần đầu tiên con được gặp chị Anh Hương, người chị lớn trong dòng tu tiếp hiện, nhìn cách chị đi , đứng, nói, cười, hình dáng nhẹ nhàng, thanh thản, bước đi chậm đều, nhưng rất vững chãi, con đứng nhìn chị đi mà thấy hình ảnh của Sư Ông hiện về, con thầm thốt lên trong lòng “ sao mà giống Sư Ông quá vậy „. Giọng nói, nụ cười của chị cũng thật hiền dịu, ánh mắt chị nhìn ai cũng thân thương và gần gũi, trìu mến vô cùng. Tất cả chúng con, người ở Việt Nam sang và người Việt ở Đức đến, tất cả đều như được tiếp thêm năng lượng chánh niệm rất đẹp, rất gần, mọi người đến với nhau, trò chuyện, vui chơi như không còn khoảng cách, tất cả đã được xích lại gần nhau, mỗi lần trong vòng tròn pháp đàm, ai cũng được chia sẻ hết lòng, những niềm vui, những lỗi buồn, những khoảng cách giữa hai thế hệ, đã không còn là vấn đề nữa. Con nhớ buổi tối hôm trong vòng tròn chia tay cuối cùng, ai cũng cười nói hân hoan, hát những bài thiền ca thật hạnh phúc, lúc kết thúc, mọi người đều hoan hỉ thiền ôm với nhau, bịn rịn, mãi mà chẳng ai muốn rời, nụ cười cũng nhiều và nước mắt cũng đã rơi, những hình ảnh ấy con sẽ mang theo mãi mãi.

Con đã từng tham gia rất nhiều khóa tu, nhưng con thấy đây là khóa tu mang lại cho con nhiều niềm vui và nhiều cảm xúc nhất, những yêu thương mang đến cho nhau sự trân quý và kính trọng,

Con biết ơn thật nhiều quí Sư Cô ở Xóm Mới, đã hết lòng chăm sóc yểm trợ chúng con, đã tạo rất nhiều điều kiện để cho chúng con được có mặt cho nhau, dù là trong thời khóa của khóa tu và trong các thời gian khác.

Chúng con nguyện đem hết năng lượng yêu thương của khóa tu này để hết lòng thực tập, không phụ lòng Bụt Tổ, Sư Ông và quí Thầy, quí Sư Cô.

Thở nhẹ và sâu mỉm cười trân quý biết ơn.

Thanh Hằng, Chân Khánh Uyển (TT Sao Mai, Hà Nội) chia sẻ:

Con đã về tới Hà Nội được 2 hôm rồi và con đã trở lại làm việc bình thường mặc dù cũng hơi mệt chút do lệch múi giờ. Giờ đây con mới ngồi lại để đọc thư của em Hải Yến và con xin phép được có mấy lời chia sẻ.

Giờ này, được ngồi xem lại những hình ảnh trong khóa tu của mọi người con như thấy mọi cảm xúc đang ùa về trong con với nhiều hạnh phúc, đọc thư này mà như thấy bé Yến ngồi treo veo trên cây cherri mà ở dưới bao người ngả mũ ra chờ quả rơi xuống :)) rồi những đoạn đường đi yên lặng cùng nhau đặt bàn chân lên đồi Thế kỷ nhẹ mà hùng. Những thảm hoa rung rinh mà lần đầu tiên con được bước chân lên đó. Bao nhiêu hình ảnh đẹp đi vào con như một huyền thoại, như được trở về một cô bé đang tung tăng trong truyện cổ tích mà đã từng được đọc ở tuổi thơ… Kể sao cho hết được những xúc động và ngỡ ngàng trong con đã có được trong thời gian ở Làng.

Con là người con được sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, cũng có một chút kí ức về thời bao cấp, rồi được lớn lên trong thời gian đất nước chuyển đổi, phát triển qua nhiều giai đoạn. Và con được làm lên bằng tất cả những chất liệu đó bên cạnh những gì con đã có sẵn từ gia đình huyết thống. Điều may mắn là con được gặp Pháp môn của Sư Ông để con có thể tự mình trở lại chính mình để hiểu mình hơn trong cuộc sống và giúp con có cuộc sống dễ chịu hơn lên mỗi ngày. 

Con không nghĩ rằng con được gặp nhiều Tăng thân người Việt đang sinh sống ở nước ngoài như vậy. Qua thời gian thực tập con học hỏi được rất nhiều từ cả nhà mình. Con cảm nhận được phần nào người Việt sống ở xa quê qua những thế hệ trước và cùng thời với con làm cho con có thêm chất liệu để nhìn lại những tập khí của chính mình. Một cái nhìn mới, con thật sự có cơ hội làm mới lại chính mình. Các chia sẻ về hoạt động của các gia đình Tăng thân, cách các anh chị lớn chơi với các em, những lời chân thật, mở lòng với nhau làm cho Tăng thân mình thật trẻ và dễ thương quá chừng. Vì đều cùng là những người thực tập nên khi được gặp nhau thấy thân thương quá, qua vài câu hỏi thăm là cảm thấy có nhau từ lâu rồi. Những chia sẻ ấn tượng, cảm động và nuôi dưỡng. Con nhớ là có một câu hỏi về xây dựng Tăng thân làm sao để với việc người thọ Giới mà lâu ko đi tụng Giới mà thấy Tăng thân nào cũng nhắc tới, lúc ấy thấy anh Tường có thủng thẳng đáp: „thì CTT thôi“ chỉ cần câu đó thôi đã chứa đựng sự bao dung, cảm thông và tình thương trong đó, chỉ đó thôi mà bao băn khoăn được giải tỏa. Rồi những buổi ngồi chơi vòng tròn chỉ có anh chị em mình thôi ấy thật ấm áp cả nhà nhỉ?! Rồi các buổi đi chơi ra vườn hồng, vui thật là vui… giờ xem lại các bức ảnh đã chụp không nghĩ số nhiều trong ảnh đó đã qua tuổi 50 cũng lâu lâu rồi ấy :)))

Biết kể sao cho hết những niềm vui, vì bao nhiêu giờ phút ở bên nhau là bấy nhiêu khoảng khắc hạnh phúc. Vui mà thật Yên nhỉ.

Con cảm ơn thật nhiều nhân duyên đã có để con được gặp cả nhà mình, từ chị Anh Hương là Sư chị tới các anh các chị lớn trong Tăng thân từ các nơi tới, sự vững vàng của các anh chị, các bạn và các em cho con thêm niềm tin vào sự thực tập. Con thực sự cảm động trước tấm lòng phụng sự Tăng thân và tình thương sâu đậm đã luôn đồng hành và yểm trợ Sư Ông và Quý Thầy Cô.

Tăng thân Hà Nội chúng con hiện nay cũng đông và nhiều gia đình nhỏ, nếu có ai về Việt Nam thì xin được mời ghé thăm chúng con nhé.

Mới chia tay đó thôi mà thấy nhớ nhau rồi, con cũng rất mong được gặp lại cả nhà vào một ngày gần nhất. Con có chút chia sẻ mà vẫn bị dông dài. Con đang hạnh phúc ở đây vì con biết mọi ngưới đang có đó cho con. Con cảm ơn nhiều cả nhà đã đọc tới đây ạ.

Trân quý và Biết ơn _/\_

Con của CTT, Chân Khánh Uyển,

Những giọt sương trên lá sen

Thiền sư Ryōkan

Ai bảo rằng thơ tôi là thơ?
Thơ tôi không phải là thơ.
Nếu bạn hiểu rằng
thơ tôi không phải là thơ –
thì khi ấy,
chúng ta mới có thể bắt đầu nói về thi ca.

Tiếc thay…
một ông thi sĩ lui về ẩn dật
và làm thơ
Ông chọn thể luật cổ điển Trung Hoa,
Bài thơ tao nhã,
lời thơ hoa mỹ .
Nhưng nếu ông không viết
từ tận sâu nơi trái tim mình,
Thì những lời hay ý đẹp đó
Có ý nghĩa gì không?

Khi còn trẻ, là một kẻ ham vui,
tôi lang thang nơi thành thị,
Khoác chiếc áo lông vũ mềm nhất,
Cưỡi con ngựa nâu đỏ oai phong.
Ban ngày rong ruổi qua phố xá,
Và tối đến say sưa
dưới hoa mơ bên sông.
Chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện quay về,
thường xuyên qua đêm nơi kỹ viện,
miệng nở một nụ cười mãn nguyện.

Tôi hồi tưởng lại –
về những ngày ở Entsū-ji,
với cuộc chiến cô đơn đi tìm con đường.
Khi vác củi, tôi nhớ cư sĩ Hō,
Khi giã hạt gạo, tôi nghĩ đến Lục Tổ.
Tôi luôn là người ngồi hàng đầu tiên,
tiếp nhận lời dạy của thầy,
Chưa từng bỏ sót một buổi thiền tọa nào.
Ba mươi năm trôi qua –
Kể từ khi tôi rời nơi non xanh biển biếc thân yêu đó.
Các bạn đồng học giờ ra sao?
Và làm sao tôi quên được
lòng từ bi của người thầy yêu dấu?
Lệ cứ tuôn rơi,
hòa vào dòng suối cuồn cuộn chảy xuống từ đỉnh núi.

Tôi trở về quê hương,
sau bao năm phiêu bạt:
Nằm bệnh trong quán trọ,
tôi lắng nghe tiếng mưa.
Một chiếc y, một bình bát –
là tất cả gia sản của tôi.
Thắp một nén hương,
tôi gắng ngồi thiền định.
Đêm đen, trước cửa sổ,
mưa phùn nhẹ rơi suốt đêm dài –
Bên trong, những ký ức ngậm ngùi
của thời gian dài tìm kiếm.

Cách mạng nhận thức

Nhà Phật học không phải là nhà nghiên cứu Phật học (Buddhist studies) mà là một nhà thực tập theo đạo Bụt. Chúng ta có thể sử dụng danh từ đạo học để bảo trọng được những truyền thống khác như Lão giáo, Cơ đốc giáo, v.v…Danh từ nhà đạo học có tính cách người thực tập nhiều hơn, còn danh từ nhà Phật học có vẻ dùng để chỉ một học giả. Nhà đạo học là the spiritual practitioner, chúng ta cũng có thể dùng chữ the yogi. The yogi and the scientist holding hand together.

Khoa học có mục đích của khoa học và Phật học có mục đích của Phật học. Mục đích của Phật học rất rõ ràng và thực tế là đi tìm phương pháp giúp cho người bớt khổ. Khoa học chỉ muốn tìm hiểu mà không có một mục đích nhất định nào. Nhưng hai truyền thống, khoa học và Phật học, có một cái chung là sự thao thức đi tìm sự thật. Phật học tin chắc rằng nếu tìm ra sự thật thì mình sẽ hết khổ. Phật học có sự thao thức tìm ra sự thật với mục đích là làm cho con người bớt khổ. Khoa học cũng có sự thao thức tìm cầu sự thật, nếu khám phá ra được sư thật đó thì có thể áp dụng vào kỹ thuật, v.v…Đó là sự khác nhau giữa khoa học và Phật học. Tháng sáu năm tới chúng ta sẽ  đi sâu vào vấn đề này: sự khác biệt giữa nhà khoa học và nhà đạo học (the difference between the yogi and the scientist).

Khổ và vui

Sau khi thành đạo, Đức Thế Tôn đi tìm năm người bạn tu ngày xưa để nói cho họ biết là Ngài đã tìm ra được sự thật. Sự thật đó đã giải phóng được Ngài và Ngài muốn trao truyền lại cho những người bạn đó kinh nghiệm mà Ngài đã đạt được. Bài pháp thoại đầu tiên Bụt nói với năm thầy là Tứ điệu đế. Trong bài pháp thoại này Bụt đề cập đến khổ đau (dukkha) tức sự thật thứ nhất. Chữ dukkha có nghĩa là không mãn ý, không thích ý. Chúng ta dịch là ill-being, le mal-être. Mình cảm thấy không vừa lòng, không thoải mái, không an lạc. Dukkha, dịch ra chữ Hán thì người ta dùng chữ khổ, khổ có nghĩa là đắng (bitter) như khổ qua (mướp đắng). Tuy vị đắng không dễ chịu nhưng vẫn có người thích ăn khổ qua. Tại sao Bụt lại nói tới cái khổ để bắt đầu sự nghiệp giảng dạy của mình? Đặt câu hỏi đó rồi thì chúng ta tìm ra được một vài câu trả lời.

Nếu Bụt bắt đầu sư giảng dạy bằng cái khổ là tại vì giáo lý của Ngài có tính cách thiết thực, có mục đích rất rõ ràng là giải quyết khổ đau của con người và của những loài khác. Nhà Phật học phải thực tế, nhà Phật học không thể đi vào thế giới mông lung của suy tưởng, hí luận (speculation) như những câu hỏi: Trước khi tôi sinh ra đã có tôi chưa hay sau khi tôi chết rồi còn có tôi không? Thế giới này là hữu hạn hay vô hạn?

Đi vào trong khoa học, chúng ta thấy khoa học có khuynh hướng hí luận, tức khoa học đặt ra những câu hỏi không dính líu trực tiếp gì tới khổ đau của con người. Đây là một đề tài để hai bên đối thoại với nhau. Tuy rằng chúng ta nói Đức Thế Tôn bắt đầu bằng dukkha nhưng trong bài pháp thoại cũng có nói tới sukkha tức cái lạc hay sự chấm dứt khổ đau. Nếu dukkha là sự thật thứ nhất thì sự thât thứ ba là sự chấm dứt dukkha, sự chuyển hóa khổ đau tức là sự an lạc. Bài pháp thoại đầu tiên không hẳn nói về khổ đau mà còn nói về cái ngược lại của khổ đau tức an lạc, tại vì khổ đau và an lạc đi đôi với nhau như trái và phải. Nếu không nói về lạc thì không thể hiểu về khổ, và không nói về khổ thì sẽ không hiểu về lạc. Hiếu được cái khổ là nhờ mình thấy được bối cảnh của cái lạc, hiểu được cái lạc là nhờ mình thấy được bối cảnh của cái khổ. Khổ và lạc làm sáng cho nhau, nó có tính cách tương đối. Khổ và lạc không phải là một thực tại khách quan mà tùy thuộc rất nhiều vào cái nhìn và cách suy tư của con người.

Vào thời nhà Lý có một vị ni sư tên là Diệu Nhân, ni sư để lại môt bài kệ rất hay:

Sinh lão bệnh tử,
Tự lý thường nhiên.
Dục cầu xuất ly,
Giải phược thiêm triền.

Sinh-lão-bệnh-tử là lý đương nhiên của sự sống, tại sao anh phải đi tìm giải thoát khỏi sinh-lão-bệnh-tử. Càng tìm giải thoát thì anh càng bị ràng buộc. Có sự sống thì phải có sinh-lão-bệnh-tử. Như vậy sinh-lão-bệnh-tử là sự thường nhiên. Vì muốn giải thoát khỏi sinh-lão-bệnh-tử nên anh lại càng bị ràng buộc thêm cũng như mình đang an lành, tự nhiên leo lên cây cao rồi mình sợ té. Khổ hay không khổ, lạc hay không lạc tùy thuộc rất nhiều vào nhận thức của mình. Khổ và lạc không phải là một thực tại khách quan nằm ngoài mình. Cùng sống trong một môi trường, cùng hưởng thọ những điều kiện của môi trường đó, nhưng tại sao có người khổ và có người không khổ, có người hạnh phúc và có người không hạnh phúc? Đó là do môi trường hay do tâm thức của mình? Buổi sáng 300 người đi thiền hành với nhau để có cơ hội buông bỏ, tiếp xúc với thiên nhiên và với chính mình bằng từng bước chân, từng hơi thở. Mọi người trong chúng đều có cơ hội đó. Ai cũng được đi thiền hành, ai cũng có không khí trong lành của ban mai, ai cũng có hai chân và hai lá phổi, ai cũng đã tiếp nhận những lời chỉ dẫn của Bụt và của thầy. Nhưng tại sao khi đi thiền hành thì có người hạnh phúc, có người không có hạnh phúc bao nhiêu, và có người còn trốn đi thiền hành? Vậy cái vui và cái khổ tùy thuộc vào hoàn cảnh và môi trường hay tùy thuộc vào nhận thức và vào trí tuệ của mình?

Trong kinh văn nói sinh, lão, bệnh, ưa mà không đạt được, không mong muốn mà gặp, không thương nhau mà ở phải chung (oán tăng hội khổ), thương nhau mà phải xa cách nhau (ái biệt ly khổ) là khổ. Khi mới cưới mình nói:”Không có em làm sao anh sống nổi!” Bây giờ mình nói:”Trời ơi, có bà ta 24 giờ đồng trong ngày làm sao chịu nổi!” Cũng là một thực tế đó, nhưng tùy ở cách nghĩ của mình mà người kia trở thành nguồn gốc của khổ đau hay nguồn gốc của hạnh phúc của mình. Nhưng phương pháp của Bụt hay ở chỗ là nói tới cái khổ không như một giáo điều, không cho rằng tất cả đều là khổ. “Tất cả đều là khổ“ là không đúng với sự thật. Cái khổ được thành lập trên cái vui, cũng như cái vui được thành lập trên cái khổ. Đồng tiền Euro có hai mặt trái và phải, không có mặt trái thì không có mặt phải, không có mặt phải thì không có mặt trái. Nhưng nhiều Phật tử rất thao thức muốn chứng minh lời Bụt nói là đúng nên cho là cái gì cũng khổ. Họ đã làm ngược lại ý của Bụt. Khổ và vui tương tức, không có khổ thì không có vui và không có vui thì không có khổ.

Bài pháp thoại Tứ diệu đế nói tới khổ, nhưng cũng nói tới hết khổ tức là vui. Có một con đường đưa tới khổ và có một con đường đưa tới hết khổ. Trong con đường đưa tới khổ có tà tư duy, trong con đường đưa tới hạnh phúc có chánh tư duy. Tùy theo nhận thức của mình mà có khổ hay không có khổ, có vui hay không có vui. Trong Truyện Kiều có câu:

Khổ vui ở tại lòng này
Hay là khổ tận đến ngày cam lai

Đó là lúc sau 15 năm lưu lạc Kiều gặp lại Kim Trọng. Buổi sáng hôm đó Kim Trọng nhớ lại ngày xưa Kiều đã đàn cho mình nghe. Bản đàn của Thúy Kiều sáng tác ngày xưa làm nát gan nát ruột người nghe, đó là bản “Đoạn trường“ (đứt ruột). Khi nghe bản nhạc đó Kim Trọng chịu không nổi:

Khi tựa gối khi cúi đầu
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày

Và Kim Trọng phê bình:

Rằng hay thì thật là hay
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào

Thúy Kiều trả lời tại tính của mình sinh ra như vậy:

Rằng quen mất nết đi rồi
Tẻ vui âu cũng tính trời biết sao

Nhưng sau 15 năm lưu lạc, đã từng xuất gia làm sư cô hai lần thì Kiều gặp lại gia đình. Tuy Thúy Kiều muốn tiếp tục tu nhưng gia đình ép Kiều phải trả hiếu và tình ngày xưa. Thúy Kiều phải bỏ sư chị trở về nhà. Gia đình ép Thúy Kiều phải sống lại nếp sống gia đình. Thúy Kiếu đồng ý trên hình thức, tôn trọng lời hứa năm xưa, nhưng trong nội dung thì Thúy Kiều muốn giữ giới không dâm dục để sống phạm hạnh:

Đem tình cầm sắt đổi ra cầm kỳ

Kim Trọng hiểu và hứa sẽ tôn trọng ý nguyện của Thúy Kiều trong đời sống tại gia phạm hạnh. Nghe như vậy Thúy Kiều đứng dậy, sửa áo, chắp tay lạy xuống ba lạy nói:”Rằng anh mới thật là người tri kỷ của em.” Hai người đem tình cầm sắt đổi ra cầm kỳ tức là sống với nhau như hai người bạn. Nhớ lại ngày xưa Kim Trọng yêu cầu Thúy Kiều đàn cho mình nghe. Tuy không muốn nhưng vì chìu người cũ nên Thúy Kiều đem đàn ra đàn. Nhưng có điều lạ là tiếng đàn đã thay đổi hẳn. Qua những năm tu học, qua những kinh nghiệm khổ đau nên có sự chuyển hóa trong lòng, Thúy Kiều đã vượt thoát nên tiếng đàn rất hay, không còn tính cách khổ đau. Tiếng đàn bây giờ đầm ấm, trong sáng, không còn tính chất sầu đau:

Phím đàn dìu dật tay tiên
Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa
Khúc đâu đầm ấm chan hòa
Đó là hồ điệp hay là Trang sinh
Khúc đâu êm ái xuân tình
Hay hồn Thục đế hay mình Đỗ Quyên
Trông sao soi rõ duềnh quyên
Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông

Kim Trọng ngạc nhiên quá, có phải bản nhạc ngày xưa hay không mà sao gẩy lên hay như vậy và tiếng đàn ấm áp, thanh thoát, ấm áp như vậy? Có phải khổ đau hay hạnh phúc là do trong lòng mình mà ra hay không? Hay là khi khổ hết thì vui tới?

Khổ vui ở tại lòng này
Hay là khổ tận đến ngày cam lai

Cam là ngọt. Kim Trọng đặt câu hỏi: Khổ hay vui có phải do tâm của mình hay không? Câu trả lời là: Đúng vậy, tâm của Thúy Kiều đã giải thoát, trong sáng, không còn hệ lụy khổ đau. Kiều biết giữ giới, biết sống đời sống tâm linh nên những khổ đau được chuyển hóa.

Thiện và ác

Trong khi khổ người ta đi tìm nguyên do của cái khổ, và thường thì người ta đổ lỗi cho hoàn cảnh. Nếu có một cái gì có dáng dấp làm cho mình khổ thì mình gọi đó là ác. Nếu có cái gì có dáng dấp làm cho mình vui thì mình gọi đó là thiện. Trong lịch sử loài người nhiều lúc có thiên tai, có khổ đau như bão tố, nước lụt, động đất, hải chấn. Người ta rất khổ và cho là thiên địa bất nhân, trời đất không dễ thương với mình. Trong Đạo Đức Kinh có câu: Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu, có nghĩa là trời đất ác, không dễ thương, coi muôn loài như con chó rơm. Tại sao trời đất sinh ra muôn loài rồi lại tạo ra những thiên tai khủng khiếp như vậy, cho nên người ta oán trời trách đất. Nhưng những khi hạnh phúc, thấy hoa vàng, trúc tím, trăng trong, mây bạc thì mình nghĩ trời đất rất dễ thương, mình cho trời đất là thiện. Chúng ta thử đặt vấn đề: Thiên địa thiện hay ác? Ví dụ mặt trời và trái đất, mà mình thường gọi là hai vị bồ tát lớn, là dễ thương hay không dễ thương? Trong Cơ đốc giáo, thánh Saint François d‘Assise có viết một bài thơ để ca ngợi mặt trời hùng dũng, sáng chói đã đem lại sự sống cho muôn loài, có nghĩa là ca tụng mặt trời là dễ thương, là thiện. Khi ca ngợi trái đất là mẹ của muôn loài, chúng ta cũng cho trái đất là dễ thương đã đem lại cho chúng ta sự sống và hạnh phúc. Vì vậy quan niệm về khổ và vui làm nền tảng cho quan niệm về thiện và ác, dễ thương hay không dễ thương. Thiện và ác là cặp bài trùng đi đôi với nhau cũng như khổ và vui. Ý niệm về khổ-vui đưa tới ý niệm về thiện-ác. Nếu khổ và vui là do ở tại lòng người nhiều hơn thì thiện và ác cũng vậy. Trời đất có thể không thiện cũng không ác, trời đất chỉ là trời đất. Nhưng mình có thể nói trời đất là thiện hay là ác tùy theo lúc mình đang khổ hay đang vui.

Nhìn kỹ vào sự sống ta thấy luôn luôn có khuynh hướng muốn có sự thăng bằng trong môi trường để sự sống có thể tiếp diễn dễ dàng. Sự thăng bằng mất đi thì sẽ có sự xáo trộn lớn. Tất cả đều được sắp đặt trên bình diện vũ trụ. Những gì xảy ra trên trái đất không chỉ do trái đất mà do cả vũ trụ quyết định. Sự sống phát sinh trên trái đất không phải chỉ do những yếu tố trên trái đất mà còn có sự tham dự của các hành tinh và các ngôi sao khác. Không khí, khí hậu, bầu khí quyển trên trái đất không phải chỉ do trái đất sinh ra mà còn do mặt trời, mặt trăng và những tinh cầu khác làm ra. Chính con người cũng vậy, trong con người có Đất Mẹ, có các vì sao. Các vì sao đã gửi tới rất nhiều hạt, trong mỗi chúng ta đều có những hạt tới từ các vì sao xa. Khi một loài trên trái đất phát triển quá nhiều, quá đông, làm mất cân bằng của sự sống thì tự nhiên có sự phản ứng trở lại khiến cho loài đó bị tiêu diệt gần hết. Sự kiện này cũng đúng với loài người, một loài sinh vật đã sinh sôi nẩy nở rất mau. Loài người đã vượt tới con số 7 tỷ người, sự có mặt đông đảo của loài người có tính cách đe dọa cho sự thăng bằng của sự sống. Nếu cứ tiếp tục như vậy thì một ngày nào đó những điều kiện sinh ra từ bên trong loài người sẽ làm cho loài người tự tiêu diệt tới một mức nào đó để có thể tạo ra sự thăng bằng. Những điều kiện đó không hẳn từ bên ngoài tới mà từ bên trong ra, tại vì sự có mặt của loài người tạo ra sự hư hoại của thiên nhiên, làm diệt chủng các loài khác. Cố nhiên nhu yếu thiết lập sự thăng bằng cần có đó. Nền văn minh mà con người đã lập nên có thể sẽ bị tiêu diệt bởi chính con người.

Chúng ta biết rất rõ có những trái bom nguyên tử rất độc hại và những lò điện nguyên tử rất nguy hiểm, nhưng chúng ta không ngừng lại được. Chúng ta hiếp đáp nhau nên ta cũng muốn có một trái bom nguyên tử để tự vệ. “Tại sao anh có bom nguyên tử mà anh lại cấm tôi có bom nguyên tử?“, Iran đã nói như vậy, “Anh có bom nguyên tử để bảo vệ tổ quốc của anh mà anh không cho tôi có quyền có bom nguyên tử!“ Chúng ta sợ và chúng ta cứ chạy đua. Bà thủ tướng Đức đã có quyết định giúp nước Đức thoát ra khỏi năng lượng nguyên tử. Trong tương lai nước Đức sẽ không sử dụng năng lượng nguyên tử nữa. Đó là một sự thức tỉnh lớn, đó là giác ngộ mà không nhân danh đạo Phật. Giác ngộ là giác ngộ, không hẳn phải là đạo Phật mới có giác ngộ. Con số những người Đức giác ngộ có đủ để bà thủ tướng có thể đưa ra quyết định đó. Bên Pháp, tổng thống Pháp chưa sẵn sàng để làm như vậy. Đảng Xã Hội muốn đi về hướng đó, nhưng không biết khi lên nắm quyền đảng Xã Hội có làm được hay không? Tất cả đều tùy thuộc vào tâm của mình.

Khi có một trận hải chấn, núi lửa phun hay một trận bão thì đó không phải là tại vì trời đất ác coi mọi loài như con chó rơm mà đó là sự tất yếu để thiết lập lại thăng bằng. Đó không phải là sự trừng phạt của Thượng đế hay của thần linh. Nếu sự thăng bằng mất đi thì sẽ có sự xáo trộn, cho nên những yếu tố bên trong và bên ngoài phối hợp với nhau để tái lập sự thăng bằng. Thấy được như vậy mình vượt thoát được ý niệm “trời đất ác hay hiền”. Không chỉ cái vui hay cái khổ tùy thuộc ở tâm mình mà ý niệm thiện-ác cũng do tâm mình tạo ra.

Cách mạng nhận thức

Nhìn vào cái khổ, Đức Thế Tôn thấy được những nguyên do đưa tới cái khổ. Những nguyên do đó được diễn tả bằng sự thật thứ hai là tập đế (samudaya). Nhìn vào khổ diệt (tức hạnh phúc), Đức thế Tôn thấy được nguyên nhân đưa tới sư chấm dứt khổ đau, đó là Bát Chánh Đạo. Nếu nguyên nhân của hạnh phúc là con đường Bát Chánh Đạo (the Noble Path) thì nguyên nhân của khổ đau là con đường Bát tà đạo (the Ignoble Path). Con đường Bát Chánh Đạo bắt đầu bằng chánh kiến (right view). Khổ hay không khổ tùy thuộc vào cái thấy của mình. Khổ không phải là một cái gì khách quan. Nếu mình chuyển nhận thức của mình thì cái khổ trở thành cái không khổ. Ni sư Diệu Nhân đã thấy sinh, lão, bệnh, tử, lý vi thường nhiên nên không có nhu yếu muốn thoát ra khỏi bốn cái đó và chấp nhận nó một cách dễ dàng. Nhìn một một ngọn lá sinh ra trong mùa xuân, nhởn nhơ trong mùa hè, chín vàng trong mùa thu và rớt xuống trong mùa đông mình thấy ngọn lá đi ngang qua sinh, lão, bệnh, tử mà không có khổ đau. Lá rụng về cội. Trong thời gian ở trên cây, nó đã làm đủ mọi cách để nuôi cây. Làm xong thì lá rơi xuống đất, làm cho đất tốt thêm để nuôi cây và lá sẽ trở lại. Tại sao lá phải khổ? Tại sao mình phải khổ vì sinh, lão, bệnh, tử?

Đôi khi trong kinh nói mình khổ vì có sinh, lão, bệnh, tử. Ni sư cũng là một Phật tử nhưng cho sinh, lão, bệnh, tử là chuyện thường, tại sao mình lại phải khổ cho nên ni sư không khổ. Có khổ hay không có khổ là do nhận thức của mình. Do đó con đường Bát chánh bắt đầu bằng chánh kiến. Có chánh kiến về khổ đau và hạnh phúc thì sẽ có chánh kiến về thiện và ác và những cặp bài trùng khác như sanh và diệt, có và không. Khảo cứu về vấn đề thiện-ác, có-không, nhà đạo học không đi vào phạm vi hí luận tại vì họ luôn luôn nhớ rằng những công việc đó có mục đích duy nhất là giải quyết vấn đề khổ đau.

Thường thì chúng ta nghĩ rằng muốn giải quyết khổ đau thì ta phải thay đổi hoàn cảnh. Trong xã hội có nghèo đói, có bất công, muốn cho bớt khổ thì phải thay đổi xã hội không còn bất công, không còn bạo động. Chúng ta nghĩ rằng khổ đau có nguyên nhân ngoại tại, nhưng thật ra khổ đau cũng có nguyên nhân nội tại là nhận thức của mình. Nếu mình bị tràn ngập bởi khổ đau, bất công, áp bức thì mình sẽ không làm được gì để thay đổi hoàn cảnh xã hội. Chỉ khi nào mình có an lạc, thoải mái, thảnh thơi thì mình mới giúp thay đổi được hoàn cảnh. Vì vậy những người hoạt động (activist), nếu không biết tu tập thì trong khi hành động để thay đổi xã hội, họ có thể làm cho xã hội rối bời thêm, khổ đau thêm tại vì họ không có an lạc mà muốn hiến tặng sự an lạc cho cuộc đời. Nhà đạo học biết rằng mình phải có an lạc, không oán trời trách đất thì mình mới có thể làm một điều gì để giúp cho người khác cũng được an lạc như mình. Vấn đề quan trọng vào bậc nhất là điều chỉnh lại nhận thức của con người chứ không phải là điều chỉnh lại hoàn cảnh. Đây là một cuộc cách mạng, nhưng là một cuộc cách mạnh bắt đầu từ nhận thức của mình chứ không phải là từ ước muốn thay đổi hoàn cảnh. Cách mạng nhận thức, tà kiến đổi thành chánh kiến, tà tư duy đổi thành chánh tư duy, đó là cách mạng của đạo Bụt.

Cho rằng cuộc đời chỉ là khổ là một tà tư duy, cho rằng có một cõi chỉ có lạc là một tà tư duy. Chánh tư duy là: Khổ và lạc tương tức với nhau và tùy thuộc vào tâm của mình. Trước hết chúng ta phải có chánh kiến và chánh tư duy. Trong chúng ta có người cảm thấy không thoải mái trong hoàn cảnh của mình, trong sự liên hệ giữa mình với gia đình mình, với người bạn hôn phối của mình, với cha, mẹ, anh chị mình và mình muốn thoát ra. Mình nghĩ mình chỉ có thể tiếp tục sống được nếu mình thay đổi. Mình phải ly dị, mình cần luật sư. Mình cho rằng đau khổ của mình hoàn toàn do những nguyên nhân ngoại tại. Mình không thấy rằng sở dĩ mình và người kia khổ là do nhận thức của mình. Có thể là mình chưa có chánh kiến, có chánh kiến thì sẽ bớt khổ mà không cần thay đổi chung quanh. Mình thấy người kia cũng đang khổ, không phải mình là người duy nhất đang khổ, nội chuyện đó thôi cũng đã đủ thay đổi tình trạng. Trong khi mình khổ, mình cứ đổ lỗi cho người kia hay là mình đổ lỗi cho hoàn cảnh, đó là tà kiến. Cái khổ của mình tùy thuộc vào cái thấy của mình rất nhiều, mình tự làm khổ mình rất nhiều. Nếu đi được một bước và thấy rằng mình không phải là duy nhất đang khổ mà người kia cũng đang khổ thì tự nhiên có sự thay đổi, mình không còn ý muốn trừng phạt, đổ lỗi, trách móc, lên án người kia nữa và mình bớt khổ liền. Vì vậy vấn đề nhận thức rất quan trọng. Phương pháp của đạo Bụt là mình đừng nên cựa quậy, mình ngồi lại cho yên, nhìn lại cho kỹ. Mình có cựa quậy, có thay đổi môi trường mới thì mình vẫn đau khổ như thường. Mình ly dị người này, cưới người khác, nhưng nhận thức của mình vẫn y như cũ, và khổ đau sẽ trở lại rất mau. Mình không biết nguyên do của khổ đau nằm rất nhiều trong nhận thức của mình.

Nếu có những khổ đau thì mình đừng vội vàng cho rằng tại hoàn cảnh hay tại môi trường của mình. Mình phải nhìn cho kỹ, đó gọi là thiền quán. Mình phải thấy trách nhiệm, vai trò của nhận thức của mình. Mình phải vượt thoát cái thấy lưỡng nguyên, tà kiến và tà tư duy của mình. Sự giác ngộ đem tới cho mình sự giải phóng, nó làm cho mình bớt khổ và có ảnh hưởng lập tức tới hoàn cảnh. Người kia cũng sẽ bớt khổ liền. Cái khổ của anh có liên hệ tới người đó, cái khổ của người đó có liên hệ tới anh. Nếu anh giúp được anh thì anh giúp được người đó và giúp được người đó thì anh cũng giúp được anh. 

Thiền sư Nhất Hạnh

(Trích trong bài pháp thoại ngày 21 tháng 12 năm 2011 tại thiền đường Nước Tĩnh, xóm Thượng, Làng Mai trong khóa An Cư Kiết Đông 2011-2012)