Archiv der Kategorie: Những lá thư tình

Học lại thương yêu

Chân Sinh Nghiêm

Các bạn trẻ thân mến,

Tôi đã chạy vòng quanh trong 30 năm để đi tìm một tình yêu và hạnh phúc đích thực mà không thành công. Tôi đã từng trải nghiệm qua những đỉnh cao hưng phấn và đã từng chìm sâu vào vực tối hoang mang, bởi vì tôi không biết cách thương yêu thật sự. Tôi không nắm được nghệ thuật vui với những những thứ bình thường trong đời sống hàng ngày. Tôi muốn chia sẻ với các bạn về cuộc hành trình của riêng tôi trên con đường đi tìm tình yêu đích thực. Tôi hy vọng các bạn có thể rút ra được chút gì đó và sự chia sẻ này có thể giúp các bạn tránh được những khổ lụy không cần thiết, những khổ đau có thể ngăn cản bạn trải nghiệm được tình yêu và hạnh phúc đích thực. Chúng ta sống trong một thế giới được trang bị đầy đủ vô số các phương tiện truyền thông nối kết chúng ta với nhau. Nhưng nhiều khi chúng ta lại không có khả năng lấp được khoảng trống nội tâm. Chúng ta không biết làm thế nào để xử lý những cảm giác cô đơn, xa cách.

Những trải nghiệm tình dục (khi chưa xuất gia), từ bé cho đến khi lớn lên sau này, đã gây cho tôi rất nhiều thương tích bởi vì trong tôi có sự lầm lẫn nghiêm trọng giữa tình yêu và tình dục. Khi còn bé tôi đã bị một người con trai lớn tuổi hơn lạm dụng tình dục. Trong đầu óc trẻ con non nớt của tôi, hạt giống của sự tin tưởng đã bị tổn hại ở hai mức độ: sự tin tưởng đối với nam giới và sự tin tưởng đối với ba mẹ. Tôi không biết cách hòa giải với cảm xúc giận dữ đối với ba mẹ tại vì họ không bao giờ có mặt đó để ôm ấp và bảo vệ tôi.

Nhìn lại những cuộc tình đã qua của tôi, tôi có thể thấy rõ là lúc nào tôi cũng cố gắng đi tìm cho cô bé bị thương trong tôi một thứ gì như là hiểu biết và thương yêu

Tôi cắt đứt quan hệ tình cảm với ba mẹ và quyết định là tôi sẽ tự chăm sóc cho mình. Về phương diện tình cảm, tôi không chờ đợi gì ở họ nữa. Quyết định này đã khiến tôi đi tìm một tình yêu vô điều kiện ở bên ngoài, tương tự như tình thương mà tôi đã cắt đứt. Nhìn lại những cuộc tình đã qua của tôi, tôi có thể thấy rõ là lúc nào tôi cũng cố gắng đi tìm cho cô bé bị thương trong tôi một thứ gì như là hiểu biết và thương yêu. Nhưng sự cố gắng này luôn đưa tới sự thất bại, bởi vì nó đã đến từ một cái thấy sai lạc, cho rằng người khác có thể chữa lành cho cô bé bị thương kia. Thật ra thì chỉ cần cô ta hòa giải và kết nối lại với kho tàng tình thương của ba mẹ lúc nào cũng có sẵn đó cho cô thì sự trị liệu sẽ xảy ra thôi.

Trong gia đình huyết thống của tôi có những khổ đau của “sự chung thủy và ghen tuông“. Khổ đau đó có trong ba mẹ và cả trong ông bà của tôi. Là sự tiếp nối của họ tôi đã tiếp nhận những hạt giống tham dục và khổ đau đó. Nhưng tôi không nhận ra được và không biết cách chuyển hóa chúng. Tôi lại lớn lên trong một xã hội mà người ta lại đặt trọng tâm vào sự thỏa mãn dục vọng như thể đó là mục tiêu của đời mình. Tôi không tránh khỏi có những quan niệm méo mó về tình yêu và tình dục. Hình như trong xã hội của chúng ta có quá nhiều “tình dục trống rỗng“, nó để lại trong tôi một cảm giác trống trải và xa cách mặc dù những người đến với tôi là những người dễ mến, có học thức, kể cả những người có sự thực tập tâm linh. Lúc đầu thì tôi cảm thấy có một sự kích thích mới mẻ và niềm vui được đến với nhau, nhưng sau một thời gian thì cái cảm giác khó chịu và xa cách kia lại trồi lên.

Nhìn lại những cuộc tình đã qua, tôi thấy nhiều mối quan hệ đã được hình thành trên căn bản của một sự lôi cuốn hời hợt và nhất thời do nhu cầu thương và được thương không được thỏa mãn trong tôi

Không ý thức được quan niệm sai lạc của mình và hậu quả của nó, tôi còn học cách sử dụng năng lượng tình dục để kiểm soát và chinh phục, cho đó là cái quyền thể hiện sức mạnh của nữ giới trong thời đại của tự do tình dục và không cần một sự cam kết lâu dài. Tôi đã sống như vậy, không để tâm đến cảm nhận của người khác. Những cuộc tình đã qua đều đến từ sự lôi cuốn hời hợt và nhất thời. Sự lôi cuốn đó phát sinh từ nhu cầu thương yêu và/hay được thương yêu và chấp nhận không được thỏa mãn trong tôi

Tôi thấy động lực thúc đẩy tôi đến với những cuộc tình đó đều là đến từ tôi: tôi cần cái gì, tôi muốn cái gì, cái gì thích hợp cho một gia đình trong tương lai theo sự mong đợi của tôi. Hay là do tôi không muốn sống một mình, tôi thích „đùa chơi“ tí thôi. Hay tôi không muốn bị xem như một người “bỏ đi“, một người ế ẩm không ai thèm và sẽ trở thành một cô gái già. Thành thực mà nói, trong những cuộc tình đã qua của tôi, tôi chưa hề biết thế nào là tình yêu thật sự. Tôi xin lỗi tất cả những người đã từng đến với tôi. Tôi xin lỗi vì không biết cách chăm sóc đau khổ của tự thân và làm cho các người cũng phải khổ theo.

Năm 30 tuổi, với một quá trình chọn lọc thông minh tiến bộ, tôi nghĩ mình có thể chọn lọc được những đức tính quan trọng nhất mà tôi đòi hỏi ở một người bạn đời để đảm bảo cho một sự cam kết tốt đẹp dài lâu, cho đến khi hai đứa chúng tôi trở thành hai cụ già xọm không còn cái răng nào, ngồi bên nhau cùng ôn lại chuyện cũ. Nhưng một lần nữa, cùng với tình yêu lãng mạn, tôi lại gặp những khó khăn và khổ đau xoay quanh những khuôn mẫu tương tự như sự ghen tuông và chiếm hữu, sự xa cách, những cảm giác trống trải, chán nản, bất như ý trong tôi, giống như cái hậu vị chua chua khi chúng ta ăn một món tráng miệng thật ngọt. Với tỷ số những cặp vợ chồng ly dị cao hơn 50%, tôi không có nhiều hy vọng có được một mối quan hệ hạnh phúc và lâu dài. Tôi muốn tìm ở người kia một cảm giác thân mật gần gũi nhưng cuối cùng tôi lại cảm thấy xa cách và lạc lõng hơn trước.

Có cái gì trong tôi ngăn cản không cho tôi có được hạnh phúc và sự mãn ý mà tôi khao khát trong một mối quan hệ. Bất kể là với ai, tôi đều gặp phải những vấn đề tương tự. Vì thế tôi quyết định không hành xử theo phương cách thông thường nữa, tôi dừng lại những mối quan hệ tình cảm để nhìn sâu vào tự thân mình. Tôi xin nghỉ việc và ghi tên tham dự khóa An Cư 3 tháng mùa Đông ở Làng Mai. Sau khi trải nghiệm được niềm vui của đời sống Tăng Thân, bình an và hạnh phúc của sự thực tập chánh niệm trong đời sống hàng ngày và hiểu được chính mình hơn thì sự lựa chọn một lối sống và một sự nghiệp khác càng trở nên hấp dẫn hơn. Tôi trở thành một sư cô trong khi đi tìm một tình yêu đích thực.

Có một điều thật buồn cười là tôi chỉ bắt đầu khám phá được tình yêu đích thực  khi chọn đời sống độc thân, nhưng điều đó đang thực sự xảy ra. Tôi vẫn đang học về tình thương đích thực, tại vì thương yêu đích thực là một sự thực tập hàng ngày mà không phải là một cảm giác. Nó làm cho trái tim mình lớn rộng và bao dung hơn. Tôi thấy bước đầu tiên trong quá trình học thương là học cách chăm sóc và đối xử với thân tâm mình một cách kính trọng và từ bi.

Tôi biết rằng bước đầu tiên trong quá trình học thương là học cách chăm sóc và đối xử với thân tâm của mình một cách kính trọng và từ bi

Bước đầu tiên trong việc chăm sóc tâm là tôi ý thức được những cảm quan của mình và những tri giác sai lầm do những cảm quan đó tạo ra. Bây giờ tôi có thể thấy rõ là khổ đau của tôi đến từ nhận thức sai lầm của mình về nam giới, từ cái thấy lệch lạc về chính bản thân và từ quan niệm u mê về tình dục, tình yêu và những mối quan hệ. Lớn lên trong một môi trường của công nghệ thông tin, tôi nghĩ rằng nhận thức sai lầm của cá nhân tôi cũng là một phản ảnh của nhận thức chung của xã hội. Truyền thông là một yếu tố quan trọng trong việc huân tập quan niệm của tôi về những mối quan hệ.  Ví dụ như, tôi còn nhớ phim Jerry Maguire đã từng một thời rất nổi tiếng trong thập niên 90. Trong phim, nhân vật nữ chính nói một câu thoại như thế này: „Em đã yêu anh ngay ở câu xin chào“, hoặc là „Anh hoàn thiện con người em“. Vào thời đó tôi nghe thật là lãng mạn. Nhưng bây giờ, nhớ lại những câu thoại kia, tôi nghĩ nhân vật nữ chính ấy đang đi tìm khổ đau tại vì khi lệ thuộc quá nhiều vào một người hoặc một vật nào ở bên ngoài để được hoàn thiện thì coi như mình đánh mất hết chủ quyền đối với hạnh phúc và sức khỏe của bản thân.

Trong vô số những phim khác tôi thấy người ta đã có quan hệ tình dục với nhau sau vài lần hoặc chỉ sau một một lần hẹn hò. Hoặc có rất nhiều bài hát về tình dục, nhiều đến nỗi bạn sẽ bị cho là không bình thường nếu bạn không có quan hệ tình dục với người kia, cho dù là bạn có yêu người kia hay không, và không cần biết là bạn đã quen với người kia bao lâu. Người ta hẹn hò với nhau vì sự hấp dẫn bề ngoài. Có vô số phương tiện giúp làm tăng cái đẹp bề ngoài để gây sự chú ý như quần áo, mỹ phẩm, phẩu thuật thẩm mỹ, giảm cân, v.v…Chúng ta đã bỏ quá nhiều thời giờ và tiền bạc, chúng ta đã cố gắng quá nhiều, phải chịu đau đón để trả giá cho cái đẹp bề ngoài và để trở thành khác hơn là chính mình. Vì vậy cho nên, nếu hiếm khi tôi cảm thấy thoải mái trong da thịt của chính tôi thì cũng không có gì đáng ngạc nhiên cả! Sự huân tập qua phương tiện truyền thông, gia đình và bạn bè này đã bắt đầu ở tuổi thiếu niên rồi.

Tôi lớn lên trong sự tiêu thụ những hình ảnh của một cái đẹp được chỉnh sửa thật hoàn hảo bằng airbrushed trên máy tính của những phụ nữ cao, gầy trơ xương với những đường cong thật đúng chỗ, với da mặt đẹp “tự nhiên“ một cách hoàn mỹ. Từ lúc còn niên thiếu tôi đã không chấp nhận được thân thể của mình, có khi tôi còn khinh thường nó nữa. Tại sao tôi luôn cảm thấy mình khiếm khuyết sau khi xem qua mấy tạp chí phụ nữ hay tạp chí thời trang, trong khi mục đích và ý nghĩa của các tạp chí này là để yểm trợ cho sức khỏe và hạnh phúc của nữ giới? Tôi không mua các tạp chí đó thường xuyên, nhưng những tấm quảng cáo được dán đầy ngoài đường phố, trong các trung tâm thương mại, quảng cáo được chiếu trên truyền hình và được đưa lên mạng như thể “nhồi ép“ con người phải theo tiêu chuẩn của một lối sống tiêu thụ và một hình ảnh thật „ngầu“ của chính bản thân. Điều này thật là tai hại vì nó làm cho tôi cảm thấy chán ghét chính bản thân, tôi không chấp nhận được hoàn cảnh của mình. Tôi không có cơ hội để sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại vì lúc nào tôi cũng phải mua sắm cái gì đó để có hạnh phúc, để được “ngầu“. Vì có mặc cảm về thân thể mình nên tôi chưa bao giờ cảm thấy hoàn toàn thoải mái và thực sự kết hợp được với ngưòi kia cho dù người kia có thể chấp nhận tôi như tôi là.

Bảy năm sau khi xuất gia thành một sư cô và được sống trong một môi trường không có những tham dục, tôi vẫn đang học cách trị liệu cho cái thấy được huân tập về thân thể của mình. Hàng ngày tôi thực tập chuyển hóa tập khí cũ trong sự tiếp xúc với người khác, tiếp xúc mà không bị thúc đẩy bởi sức hấp dẫn hay ý muốn chinh phục. 

Cái ý nghĩ “không chấp nhận bản thân“ đã ăn sâu trong tôi cho đến nỗi, sau khi xuất gia và được sống trong một môi trường không có những tham dục được 7 năm mà tôi vẫn còn đang học cách chữa trị những cái thấy được huân tập về thân thể mình và thực tập chuyển hóa tập khí cũ trong sự tiếp xúc với người khác, tiếp xúc mà không bị thúc đẩy bởi sức hấp dẫn hay ý muốn chinh phục. Tôi học cách đối xử với thân thể tôi một cách kính trọng và từ bi. Tôi ý thức được thức ăn mình đang ăn, tôi ngủ đầy đủ và thư giãn. Tôi học cách xử lý sự căng thẳng và những cơn bão cảm xúc bằng cách sử dụng hơi thở và bước chân chánh niệm. Chung quanh tôi là một môi trường nhiều thiên nhiên có công năng trị liệu, một môi trường giống như Đất Mẹ tiếp nhận được tất cả. Là một bông hoa xinh đẹp hay một chiếc lá hư tàn, chúng ta đều là những sáng tạo mầu nhiệm của Đất Mẹ. Bông hoa không thể so sánh và chê bai chiếc lá tại vì chiếc lá có khả năng cung cấp những chất dinh dưỡng để nuôi cây và bông hoa.

Sau khi rời bỏ môi trường cũ và cho phép mình trải nghiệm một môi trường mới thứ hai, một môi trường không có những kích thích dung thường, tôi mới có thể thấy rõ hơn tác dụng của sự huân tập trên cách hành xử và sự lựa chọn tiêu thụ hàng ngày cho sức khỏe của thân và tâm. Sống trong của một xã hội công nghệ cao như hiện nay giống như bơi trong một dòng thác lũ. Chúng ta chỉ bị cuốn đi, trồi lên sụp xuống mà không tự chủ được. Thỉnh thoảng chúng ta dừng lại lấy hơi và thoáng thấy được một chút trời xanh. Nhưng nếu tìm được cách thoát ra khỏi dòng thác lũ đó và ngồi lên bờ thì chúng ta sẽ nhận ra rằng bình an và thong dong là điều có thể có được. Trời xanh và cây xanh thật đẹp, những vì sao lấp lánh trong đêm linh thiêng là những mầu nhiệm, và chúng ta cũng là những mầu nhiệm.

Các nhà dinh dưỡng thường nói:“Quí vị là cái mà quí vị ăn“ Tôi nghĩ điều này cũng đúng với tâm của mình. Điều mình nghĩ, điều mình làm, kể cả những tập khí của mình, đều tùy thuộc vào những gì mà mình tiêu thụ qua những cảm quan đưa tới nhận thức của mình về một cái gì đó. Nếu mình tiếp tục tiêu thụ hình ảnh, âm thanh và ý tưởng có mục đích củng cố thêm những nhận thức đó thì nó sẽ trở thành một quan niệm ăn sâu trong tâm thức của mình. Nó trở thành sự thật của mình. Quá trình này xảy ra một cách thật tinh vi cho đến nỗi mình cũng không nhận ra là mình đã thay đổi quan niệm và nhận thức.  Nếu quan niệm đó sai lạc thì nó sẽ là nền tảng của mọi hành động gây ra phiền não và khổ đau cho mình. Tôi không qui lỗi cho truyền thông và xã hội đã làm cho tôi đau khổ. Tôi chỉ cố gắng chia sẻ để chúng ta thấy rõ những cảm quan đã tác động hàng ngày lên tâm của ta như thế nào. Chúng ta chọn tiêu thụ một cách thông minh để có thể bảo hộ cho thân và tâm. Cũng giống như khi ta nhúng hoa lan trắng vào nước có pha màu tím thì hoa lan sẽ trở nên tím. Ta chọn cho mình thực phẩm nào, ta chọn màu nào cho hoa lan ta đây?

Chúng ta có ý thức hơn về sự tác động hàng ngày của những cảm quan lên tâm của mình. Chúng ta chọn tiêu thụ một cách thông minh để có thể bảo hộ cho thân và tâm.

Tôi đã chứng thực được điều này khi sống giản dị hơn, với ít kích thích cảm quan hơn. Tôi tập vui với những cái đơn giản và thấy được sự mầu nhiệm trong những cái bình thường của đời sống. Tôi sắp xếp lại thứ tự ưu tiên cho bản thân theo một chiều hướng đúng đắn. Chúng ta hay xem thường những chuyện đơn giản như đi dạo trong buổi hoàng hôn thật đẹp, ngắm ánh trăng vẽ qua cành lá những hình bóng tuyệt đẹp trên nền đất, cùng người thương thưởng thức màu thơm ngon của lá mùa thu trong chiều chủ nhật. Những cái mình làm hàng ngày có thể là chính là cái cần thiết nhất cho tinh thần khi tâm mình ở cùng với thân, khi mình có mặt trong giây phút hiện tại và an trú trong hơi thở chánh niệm. Đất Mẹ cung cấp cho mình biết bao nhiêu là phép lạ. Nhưng chỉ khi nào dừng lại thì mình mới có thể tiếp nhận để được trị liệu và chuyển hóa. Nếu không thì mình chỉ là người cùng tử, chạy tìm vòng quanh trong khi mình đã có bảo vật trong tay.

Trong những khóa tu mùa hè tại Làng Mai chúng tôi thường tổ chức chương trình cho người trẻ. Năm ngoái khi làm việc với người trẻ tôi rất đau lòng khi nghe câu chuyện của nhiều người trẻ chán ghét thân thể của mình. Các em thấy mình cần phải che dấu cái xấu của mình bằng cách trang điểm thật nhiều hay mình chỉ có thể thu hút người khác bằng cách ăn mặc khêu gợi hay mình chỉ được chấp nhận và thương yêu khi nào mình đồng ý có sự quan hệ tình dục. Thật là không may khi rượu chè, ma túy và quan hệ tình dục trở thành một nguồn áp lực của bạn bè đồng trang lứa trước khi người trẻ trưởng thành về mặt tinh thần và tình cảm để có thể xử lý những vấn đề đó. Biết được sự thật này thì tôi hiểu tại sao người ta lại chỉ biết tình dục trống rỗng mà không chạm tới được tình yêu đích thực và tại sao họ lại đau khổ vì cái thứ hạnh phúc cạn cợt này. Chúng ta phải làm gì để giúp các bạn trẻ có được những quan niệm thực tế hơn, có cái nhìn dễ thương và kính trọng hơn về cái đẹp, về tình yêu và tình dục cũng như những quan niệm có công năng nuôi dưỡng và xây dựng con người thật của mình.

Trong sự thực tập hàng ngày chúng tôi có một bài kệ đọc lên khi soi gương:

Chánh niệm là đài gương
Gương soi hình tứ đại
Đẹp nhất là tình thương
Và cái nhìn rộng rãi

Khi mình có từ bi và không gian trong trái tim thì người khác sẽ thấy nơi mình một sức lôi cuốn tự nhiên và sẽ tìm tới mình, mình không cần sử dụng mỹ phẩm hay sức hấp dẫn nào. Trái lại, nếu mình là những người mẫu nổi tiếng với y phục và trang sức thật đẹp mà mình lại đi xem thường người khác, cho rằng mình đã biết tất cả rồi thì người khác cũng không thích tiếp xúc với mình. Một thống kê của Road Dahl cũng đưa ra vấn đề này:“ Nếu quí vị có một tâm hồn tốt đẹp thì nó sẽ thể hiện lên mặt của quí vị như tia sáng mặt trời và lúc nào quí vị cũng tỏa sáng.“ Học làm đẹp và nhìn cái đẹp theo cách đó thì chúng ta sẽ là nguồn cảm hứng cho nhiều người khác. Và chỉ có một ý thức tập thể mới có thể làm thay đổi những trào lưu độc hại trong xã hội.

Mùa hè năm ngoái, khi tham dự khóa tu Wake Up Earth tại Làng Mai tôi đã trải nghiệm được sự trị liệu và có cái thấy thật sâu sắc về mối quan hệ giữa tôi và  nam giới. Đã 7 năm qua tôi thực tập chữa lành vết thương của tuổi thơ và tôi nghĩ là tôi đã tiến bộ rất nhiều. Trong khóa tu tôi chứng kiến được cảnh một thầy xúc động tới rơi nước mắt khi nghe sự chia sẻ của bà Christiana Figueres.  Tôi cảm động làm sao khi biết cái làm thầy ấy xúc động cũng là chính cái làm tôi xúc động. Tôi phát hiện ra là trên một bình diện nào đó trong tiềm thức, tôi đã cảm thấy có một hố sâu chia cách giữa tôi và nam giới. Trong những năm qua tôi đã có một quan niệm cơ bản là xem đàn ông gần giống như những con thú chỉ nghĩ tới hoặc bị thúc đẩy bởi tình dục. Có thể là họ còn tệ hơn thú tại vì ít nhất thú vật chỉ tích cực trong mùa giao phối, còn con nguời thì có thể quanh năm và bất cứ lúc nào. Cũng không phải là tôi chưa từng thấy một người đàn ông khóc, nhưng trong lúc đó có một cái gì đánh thẳng vào trong tâm tôi, giống như trong như trò chơi “Rà Mìn“, khi ta bấm chính xác vào cái ô vuông thì một góc của tâm tôi bỗng sáng rộng ra, để lộ cái mìn đen đầy gai nhọn của những tri giác sai lầm về nam giới. Nó đã khiến tôi đối xử thiếu tôn trọng với họ hoặc xem họ như những trò chơi thú vị. Còn không thì tôi giữ một khoảng cách lạnh nhạt hoặc dán cho họ cái nhãn“vượt ra ngoài sự hiểu biết“. Sau khóa tu tôi có cơ hội nói chuyện với thầy kia, thầy chia sẻ là khoá tu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với thầy, đã giúp thầy trong quá trình nhìn sâu và chuyển hóa những khó khăn trong việc xử lý năng lượng tình dục và trong sự tiếp xúc với nữ giới.

Trong khóa tu này một sự trị liệu bất ngờ nữa cũng đã xảy ra cho tôi. Đó là tôi nghe một anh thiền sinh chia sẻ sự thực tập Thiền Lạy liên quan tới năng lượng tình dục. Có một cái gì đó trong con người anh đánh động tôi mà tôi không thể nào diễn tả được. Có thể là do anh thực tập quá sâu sắc, hay là do tuệ giác và sự chuyển hóa anh có được trong khi thực tập riêng với các bạn nam mà không có sự hiện diện của nữ giới. Tôi cảm thấy mình đưọc trị liệu nhờ sự thực tập khiêm cung của anh và nhờ sự thực tập tập thể của nhiều người bạn nam. Sự thực tập Thiền Lạy hùng tráng này đã làm cho họ rất xúc động. Nó giống như một sự bắt đầu mới, một lời mời để làm mới lại quan niệm về năng lượng tình dục. Đây là sự xác nhận hùng hồn về tính tương tức. Trong khi thực tập để chữa lành cho mình thì đồng thời mình cũng chữa lành được cho người khác. Khi mình để hết tâm hướng về sự trị liệu và từ bi thì mình có thể chế tác ra những làn sóng năng lượng ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều người khác một cách thật bất ngờ.

Tôi nghĩ, sống trong một xã hội, chúng ta đã làm tổn thương nhau vì những quan niệm sai lầm về giới tính. Mình nghĩ mình hiểu đàn ông và đàn bà họ muốn cái gì, nhưng có thật là mình hiểu được không? Chúng ta đã làm tổn thương nhau. Những tri giác sai lầm về tình dục đã gây ra biết bao nhiêu là hiểu lầm về tình yêu và tạo ra khổ đau trong những mối quan hệ. Trong buổi pháp đàm cuối khóa tu tôi đã chia sẻ với nhóm về những vết thương của quá khứ và về tuệ giác này. Tôi cảm ơn các bạn thiền sinh nam vì họ đã thực tập quá giỏi. Tôi xin lỗi vì đã có cái thấy sai lạc về họ. Tôi đã không thấy đưọc phương diện tâm linh thiêng liêng của họ, sâu hơn nữa là tôi đã không xem họ như những con người đáng được tôn trọng. Nước mắt tôi chảy ra cuốn theo những cái thấy sai lầm, tôi cảm thấy tôi đã chữa lành được nhận thức của mình về nam giới. Tôi có thể làm mới lại sự thực tập tiếp xúc với nam giới một cách vô giới tính, và nhìn họ như họ thật sự là. Trong khi trị liệu những vết thương của quá khứ và những quan niệm sai lầm, tôi cũng chuyển hóa được tập khí tiêu cực của mình về nam giới.

Trong buổi tối cuối khóa tu Wake Up Earth, chúng tôi làm văn nghệ Be-in (có mặt cho nhau) với đề tài “Bảo vệ Đất Mẹ“. Tiết mục cuối là Bài ca Đất Mẹ. Tôi nghĩ là buổi tối sẽ chấm dứt một cách chậm rãi và bình an thì bỗng nhiên một ban nhạc đứng lên, xin mở âm thanh to hơn và mời vài người tình nguyện ra nhảy. Hầu như mọi ngươì đều đổ xô ra chật cả sân khấu. Sư cô Phú Nghiêm, một trong những người điều khiển chương trình, phải mời thiền sinh ngồi xuống trở lại tại vì như vậy thì không ai còn thấy được ban nhạc đâu nữa. Nhiều người miễn cưỡng về lại chỗ ngồi, nhưng những người khác thì vẫn ở lại vì thấy có ra một khoảng trống đã được mở ra phía sau sân khấu.

Lúc ban nhạc bắt đầu trình diễn thì nhịp jive của bản nhạc lại làm mọi người cảm thấy ngứa chân. Ngay sau đó, các thiền sinh bắt đầu chuyển động theo nhạc môt cách hạnh phúc và tự do. Thầy Pháp Lưu, một người điều khiển chương trình khác, nói “ Chào mừng các bạn đến với Club Làng Mai!“. Tôi thấy mãn nguyện, tôi có cảm tưởng như mình đang tham dự một buổi tiệc gia đình tại nhà. Có thể có người phản ứng tiêu cực hơn và nói,“ trong một tu viện Phật giáo mà lại có chuyện này à?“. Nhưng tôi lại thấy vui vì đó là một bằng chứng vững chắc cho người trẻ thấy là chúng ta có thể có vui chơi “trong sạch“ mà không cần tới rượu, ma túy và tình dục! Điều này có thể xảy ra vì suốt trong một tuần chúng tôi đã để thì giờ quán chiếu, tìm hiểu chính mình và người khác trong một môi trường có thể giúp chúng tôi nuôi dưỡng được lòng từ bi và sự hiểu biết.

Thật là tuyệt vời khi bạn có thể thật là bạn và có thể tiếp xúc với người khác mà không có thành kiến hay phải đeo mặt nạ.

Hơn bao giờ hết tôi đang khám phá ra tình yêu đích thực khi tôi được sống trong một môi trường không có sắc dục, một môi trường với lối tiêu thụ tự nhiên lành mạnh từ đoàn thực cho tới thức thực (hoàn toàn không có bạo động, bi kịch và thông tin quá tải). Được sống với những tri kỷ, những người có ước nguyện thương yêu tất cả chúng sinh, thật sự giúp cho tôi thực tập thương yêu đích thực một cách vững chãi. Thật là tuyệt vời khi bạn có thể thật là bạn và có thể tiếp xúc với người khác mà không có thành kiến hay phải đeo mặt nạ. Khi tôi học không bám lấy cái tốt hay xa lánh cái xấu của người khác thì đồng thời tôi cũng học được cách xử lý tính tốt và tính xấu của mình. Đó là sự khiêm cung, và nó nuôi dưỡng đức tính kiên nhẫn trong tôi. Tiếp xúc với người kia bằng tình thương, chăm sóc họ, giúp đỡ họ vô điều kiện cũng giải thoát cho chúng ta. Chúng ta có thể cảm thấy được hạnh phúc sâu sắc, sự bình an và niềm vui vì sự có mặt của người kia mà không cần sự xúc chạm thân thể nào.  

Tôi thật sự muốn khuyến khích người trẻ nên để thì giờ tìm hiểu thế nào là tình yêu đích thực trước khi lao vào một mối quan hệ. Trước tiên bạn hãy cho mình thời gian cần thiết để học hiểu và chăm sóc thân và tâm của mình. Mỗi ngày bạn có thể để thời giờ ngồi yên để nhận diện những gì đang xảy ra trong mình, làm cho thân tâm mình lắng dịu xuống hoặc mở lòng ra cho một vài cảm hứng đang nằm sâu trong tâm, bị che lấp bỏi công việc bận rộn hàng ngày.  Mặt khác, bạn cũng có thể ghi tên tham dự khóa tu trong 1 tuần hay lâu hơn. Khóa tu được tổ chức trong một môi trường có khả năng giúp bạn làm lắng dịu thân tâm cùng với sự thực tập giúp bạn nhìn sâu vào chính tự thân. Chỉ sau đó rồi thì bạn mới đủ tự do và tình thương để bắt đầu một mối quan hệ. Có như vậy thì mối quan hệ với chính bạn và với người khác, dù cho có tình dục hay không, cũng sẽ đươc viên mãn và thăng hoa.

Dịch từ bài viết “Beginning Anew to love“ của sư cô Chân Sinh Nghiêm (Wake Up Community 01.05.2017)

Bước tới thảnh thơi

(Cảm nghĩ về khoá tu Xuất Gia Gieo Duyên)

Chúng con là:
Gia đình Cá Ông rất to
Gồm những sư chú sư cô vừa mới thọ (Giới Sadi, Sadini)
Vượt qua những tháng ngày mưa giông nắng gió
Đã về đã tới bây giờ ở đây tại Waldbröl
Được tiếp nhận gia tài tâm linh vô cùng giàu có
Với ước mơ hoài bão thật to
Nguyện tu tập tinh cần chuyển hóa hết âu lo
Bước tới thảnh thơi vô cùng tự do
Bằng chánh niệm trong từng bước chân nho nhỏ
Thở nhẹ và sâu, biết mỉm cười với những niềm đau khốn khó
Dẫu biết trên đường đời biển cả sóng to
Luôn nguyện dìu nhau bước qua bao tháng ngày gian khó
Đi như một dòng sông, hiểu và thương sáng tỏ
Chỉ cần quay về nương tựa Bụt, Tổ, Thầy để thở
Là đã có đường đi rồi con không còn lo sợ

Nhân duyên đưa con đến khoá tu xuất gia gieo duyên là vì cuối năm ngoái gia đình con liên tiếp đối diện những mất mát đau thương về tinh thần vì sự ra đi đột ngột của những người thân. Khi chứng kiến cảnh gia đình mình đương đầu với bệnh tật và cái chết của người thân trong nỗi hoang mang, sợ hãi, bất lực đã làm con chấn động rất nhiều. Cả nhà con chênh vênh và suy sụp, những nhân duyên nghiệp quả biểu hiện cũng chưa đủ làm cả nhà thức tỉnh. Người mất thì cũng đã mất, người sống thì lại tiếp tục quay trở lại với những bộn bề hối hả của cuộc sống thường nhật, không có một điểm tựa tâm linh nào để quay về nương tựa chăm sóc vực dậy tinh thần sau cơn mê. Ý thức được sâu sắc những thực trạng khổ đau đó, con đã quyết tâm phải thu xếp để tham dự cho bằng được khóa xuất gia gieo duyên tại EIAB Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu Đức năm nay để gieo duyên cho gia đình huyết thống của mình được tiếp nhận gia tài tâm linh của chư Bụt và Bồ Tát.

Và chúng con đã về đã tới, bây giờ ở đây với một gia đình tâm linh rất lớn, từ bốn phương trời và từ khắp năm châu, không phân biệt màu da tôn giáo, tuổi tác, cùng về đây xây đắp yêu thương. Giữa vòng xoáy hối hả của cuộc sống, khi những cơn sóng phiền não, âu lo cho gia đình, công việc, học hành, mưu sinh, cơm, áo gạo, tiền luôn bủa vây chúng con, thì giờ phút được dừng lại, ngồi thật yên, lắng lòng lại mới thấy trân quý biết bao. Chúng con được tập khí công mỗi sáng cùng nhau, ngồi thiền, đi thiền hành, nghe pháp thoại, học giới luật và uy nghi, uống trà, ăn cơm, chơi đá cầu, đi dạo trong rừng, làm vườn, lau nhà, rửa chén, ăn kem, đi hái cherry, buông thư… cùng nhau. Chúng con còn được cùng giúp nhau đắp y, sửa áo, cùng giúp nhau cạo tóc, cùng khóc cùng cười với nhau… Cái cảm giác quây quần bên nhau ấm áp như một gia đình có các sư cô chú anh chị lớn lẫn những sư em con cháu nhỏ sao mà nuôi dưỡng quá chừng, cùng yểm trợ nâng đỡ cho nhau hết lòng và luôn có mặt trọn vẹn trong từng hoạt động thời khóa thực sự là gia tài vô giá mà chúng con đã may mắn được tiếp nhận trong khóa tu đặc biệt này.

Không khí hân hoan háo hức của buổi lễ xuất gia đã rộn ràng trong lòng chúng con khi vừa tới Viện Phật Học, chúng con được đi thử y, áo tràng và tập dượt, xung quanh quý Thầy, quý Sư Cô cũng bận rộn chăm sóc chuẩn bị đêm ngày cho buổi lễ, đặt tên pháp tự, sắp xếp mọi thứ thật trang nghiêm. Không khí rộn ràng như một ngày vui lớn của Viện Phật Học, một khoá tu đặc biệt quá chừng vì sẽ có tới 49 sư chú và sư cô mới toanh!

Đến ngày xuất gia chính thức, chúng con ai cũng bồi hồi xúc động, không khí linh thiêng đặc biệt của buổi lễ truyền cho chúng con rất nhiều năng lượng thương yêu khi quý thầy, quý sư cô vô cùng xúc động và nuôi dưỡng khi chúng con được thực sự biểu hiện màu nhiệm trong lòng tăng thân. Khi tiếng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm (Namo Avalokiteshvara) của đại chúng vang vọng trong thiền đường, quý sư cha, sư mẹ, quý thầy, quý sư cô bước xuống rưới nước cam lồ tịnh thủy và cắt tóc cho giới tử, trong không khí thiêng liêng, mầu nhiệm đó, con đã không ngăn được những dòng nước mắt cứ chảy dài nức nở không ngừng. Ngay lúc ấy, bỗng con cảm nhận một bàn tay nhẹ nhàng ấm áp đặt nhẹ lên mái đầu con, ấm áp êm dịu như một biển tình thương lan tỏa khắp thân tâm khiến con thấy nuôi dưỡng và hạnh phúc vô cùng. Bàn tay từ bi của Bụt, của Tổ, của Sư Ông, của quý thầy, quý sư cô thương yêu tin tưởng và trao truyền cho chúng con những gia tài tâm linh vô giá, nâng đỡ dìu dắt chở che cho chúng con trên con đường tu tập khiến những lọn tóc cứ buông nhẹ cuốn đi những âu lo, muộn phiền.

Hình ảnh Viện Phật Học qua một đêm bỗng chốc tràn đầy BIỂN áo nâu cạo sạch mái tóc thật là đẹp và nuôi dưỡng 🙂 Những sư chú, sư cô vừa được cạo sạch mái tóc ung dung tự tại, đẹp rạng ngời như những em bé thơ ngây đang ríu rít hân hoan chào nhau bằng tên pháp tự mới. Ở ngoài đời, mỗi ngày thức dậy chúng con đều lo lắng đứng trước gương và tủ quần áo để chọn lựa hôm nay mặc gì, tóc tai để kiểu nào, áo quần kết hợp ra sao, mỹ phẩm phụ kiện thế nào.

Từ ngày được xuất gia, được học sâu về ý nghĩa nếp sống thiểu dục tri túc của người xuất sĩ thực sự nuôi dưỡng chúng con rất nhiều. Một màu áo nâu giản dị khiêm cung, cạo sạch mái tóc nhẹ cả mái đầu, mặc áo của người tu rất thoải mái, dễ chịu, rộng rãi, thảnh thơi. Chúng con còn được thực tập đi đứng nằm ngồi uy nghi trong chánh niệm bằng những bài thi kệ vô cùng nuôi dưỡng. Thầy viện trưởng còn ân cần từ bi chỉ dạy chúng con từng ly từng tí qua cách gấp áo tràng khi đứng sao cho đẹp, cách đi lên xuống cầu thang và đứng lên ngồi xuống như thế nào với tà áo tràng dài cho có uy nghi, cách thực tập ôm bình bát đi khất thực làm sao để nuôi dưỡng bồ đề tâm của mình. Nhìn các sư anh, sư chị, sư em với diện mạo mới đều tràn đầy từ bi tươi vui hạnh phúc như anh em một nhà, ai cũng nhẹ nhàng thanh tao quá đi. Nhờ vậy con mới thực sự cảm nhận sâu sắc được vẻ đẹp đích thực không phải từ những trang sức bên ngoài mà từ chính nếp sống chánh niệm, lành mạnh. Có hiểu, có thương qua từng nụ cười dịu dàng, với ánh mắt thương yêu chân thành, chắp tay chào khiêm cung, từng bước chân nhẹ nhàng, những lời nói nuôi dưỡng, từng cử chỉ hành động trong chánh niệm đều toát lên vẻ uy nghi rất đẹp của người tu.

Những tháng ngày tu học nuôi dưỡng rồi cũng qua, kết thúc khóa tu gieo duyên chúng con phải xả y để trở lại đời sống thường nhật. Dù chỉ mới được xuất gia gieo duyên một thời gian ngắn, nhưng ai trong chúng con cũng đều được nuôi dưỡng rất nhiều hạt giống thương yêu và hiểu biết, nên giờ phút phải cởi y áo trả lại cho đại chúng, chúng con ai cũng nghẹn ngào không nỡ rời xa. Hình ảnh xúc động nhất là cảnh các sư chú, sư cô vừa cởi y vừa khóc nức nở trong tiếng niệm con về nương tựa Bụt, con về nương tựa Pháp, con về nương tựa Tăng của toàn thể đại chúng. Ai cũng lưu luyến không muốn trả lại tấm Áo Giải Thoát linh thiêng màu nhiệm mà chúng con vừa mới được tiếp nhận. Chúng con có phước báu lớn được xuất gia gieo duyên tu học, được cảm nhận sâu sắc sự linh thiêng màu nhiệm của con đường giải thoát khi được về nương tựa Bụt, Tổ, Thầy. Cảm giác giờ đây phải rời xa mái nhà tâm linh của gia đình xuất gia khiến chúng con vô cùng bồi hồi xúc động, vì quá nhiều tình thương yêu, chăm sóc, ân cần, chỉ dạy đầy nuôi dưỡng những ngày qua.

Con ý thức rằng khi cạo sạch mái tóc trong khoá tu gieo duyên này mình không chỉ hiến tặng mái tóc dành tặng cho các bệnh nhân ung thư mà mình còn đang hiến tặng rất nhiều năng lượng bình an, chánh niệm, thương yêu và an lạc cho mọi người. Chính sự thực tập chánh niệm của chúng con đã là đóa hoa tươi thắm nhất để hiến tặng cho cuộc đời. Cám ơn Bụt, Tổ, Sư Ông đã sinh ra con thêm một lần trong đời sống này. Được biểu hiện trong lòng tăng thân xuất sĩ và học nếp sống phạm hạnh của người xuất gia là kỷ niệm nuôi dưỡng vô cùng sâu sắc không thể nào quên trong cuộc đời con.

Sư Ông ơi, ngày hôm nay chúng con hạnh phúc lắm ạ. Đàn Cá Ông của Sư Ông đã và vẫn đang tiếp tục được biểu hiện màu nhiệm trong lòng tăng thân. Chúng con nguyện sẽ đi như một dòng sông và tiếp tục nuôi lớn sự thực tập của mình dù ở bất cứ ở đâu bất cứ lúc nào và làm bất cứ việc gì.

Con trân quý và biết ơn sâu sắc,

Sư cô Biển Tĩnh Tại

EIAB thương yêu, Waldbröl tháng 6 năm 2025

Trời còn để có hôm nay

Nếu 3 năm trước sư cô Chân Không và sư cô Định Nghiêm không đến Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu tại Đức? Nếu không có một động lực gì khiến gì anh chị em chúng ta vượt qua được sự e dè để mở lòng ra với quí sư cô, thì Tăng Thân Tiếp Hiện Cư Sĩ Người Việt chúng ta làm sao có được ngày hôm nay? Nếu…và nếu… Đó hình như là những duyên may kỳ lạ mà Bụt, chư Tổ và Thầy đã sắp xếp sẵn cho chúng ta.

Anh chị em chúng ta luôn mơ ước có được một khóa tu dành riêng cho Tiếp Hiện người Việt tại Đức.  Các bạn Tiếp Hiện người Đức đã làm được điều đó, mỗi năm họ đều tổ chức một khóa tu Tiếp Hiện cho người Đức vào tháng 10 tại EIAB. Chúng ta rất “thèm“ được như các bạn Đức và … ước mơ đó đã trở thành hiện thực.

Với sự yểm trợ hết lòng của sư cô Chân Không và nhất là của sư cô Định Nghiêm, một khóa tu dành cho Tiếp Hiện người Việt Châu Âu đã được tổ chức vào tháng 06.2024 tại EIAB Đức. Khóa tu rất thành công và tạo được nguồn cảm hứng cho tất cả cư sĩ cũng như xuất sĩ. Sư cô Định Nghiêm đã khuyến khích, vận động, thu xếp cùng quí sư cô Xóm Mới Làng Mai để tổ chức một khóa tu dành cho các Tiếp Hiện người Việt trên khắp thế giới vào tháng 05.2025 tại Xóm Mới.

Lúc đầu chúng ta nhận thấy một vài điều kiện không thuận lợi lắm cho khóa tu, như vào tháng 03.2025 (nghĩa là trước khóa tu Tiếp hiện 2 tháng), Đại Giới Đàn được tổ chức tại Làng Mai Pháp. Nhiều vị Tiếp Hiện cư sĩ về tham dự Đại Giới Đàn , làm sao các bạn có thể tham dự được khóa tu Tiếp Hiện 2 tháng sau đó? Chúng ta hồi hộp lắm, cứ lo là nếu những anh chị em Tiêp Hiện ở các nước ghi danh quá ít thì khóa tu phải bị hủy bỏ chăng? May là sư cô Sắc Nghiêm, người phụ trách công việc ghi danh, đã trấn an trước: Dù ít người ghi danh đi nữa thì khóa tu cũng sẽ được tổ chức. Càng ít người thì càng ấm cúng hơn.

Cuối cùng thì số người Việt ghi danh ít thật: 24 người. Nhưng có điều rất vui là hơn 10 người Tây phương cũng xin tham dự khóa tu với chúng ta, dù họ chỉ được nghe qua thông dịch. Xin cảm ơn quí anh chị em người Tây phương đã hợp tác và yểm trợ cho Tiếp Hiện người Việt.

Tuy số người tham dự khá ít nhưng khóa tu lại rất thành công. Chúng ta có nhiều thì giờ, có nhiều không gian để chơi với nhau, gần gũi nhau hơn, chia sẻ những gút mắc trong lòng để hiểu và thương nhau hơn. Nhất là chúng ta nhận được tình thương và sự chăm sóc hết lòng của quí sư cô Xóm Mới.

Sự có mặt của chị Anh Hương, người chị lớn của Dòng Tu Tiếp Hiện, người Tiếp Hiện đầu tiên được truyền giới tại Tây phương sau 15 năm kể từ khi Thầy truyền giới cho 6 vị Tiếp Hiện đầu tiên ở Việt Nam vào năm 1966, là một niềm khích lệ lớn cho chúng ta. Sự thực tập, lời chỉ dạy đầy từ bi của chị là một tấm gương cho đàn em sau này. 

Những lần ngồi chơi với nhau, tâm sự với nhau như người thân trong một gia đình là những giây phút hạnh phúc nhất. Nguồn cảm hứng lại được tưới tẩm và sư cô Định Nghiêm tuyên bố: Năm 2027 sẽ có một khoá tu Tiếp Hiện cho người Việt ở khắp thế giới tại EIAB Đức. Có phải trong tương lai, mỗi năm chúng ta sẽ có được một khóa tu dành cho Tiếp Hiện cư sĩ người Việt khắp nơi trên thế giới?

Sau khóa tu, một vài anh chị em đã chia sẻ cảm tưởng của mình với những lời lẽ thật cảm động và tràn đầy thương yêu.

Hải Yến, Chân Đức Từ Mẫn (TT Cam Lộ Tịnh Thủy, Đức) chia sẻ:

Xóm Mới ngày đoàn tụ

Vậy là đã thấm thoát gần chín năm con mới trở về lại Xóm Mới. Ngày ấy, lần đầu đến làng con đi một mình, bơ vơ lạc lõng vì không có hướng đi trong cuộc đời…Giờ đây, con đã tìm được con đường nhờ có Bụt, có Tổ, có Sư Ông và có tăng thân luôn đưa lối nâng đỡ cho con. Con trân quý và biết ơn khi được cùng các Anh Chị Em Tiếp Hiện về dự khoá tu vào ngày rằm tháng 4, mùa Bụt đản sinh an lành ấm áp yêu thương.  

Hạnh phúc vô cùng khi chúng con được nuôi dưỡng trong tình huynh đệ và được ôm ấp trọn vẹn trong vòng tay tăng thân, được mở lòng chia sẻ xoá tan những mặc cảm thế hệ và khoảng cách địa lý, chỉ có mặt trọn vẹn cho nhau trong phút giây hiện tại…

Hạnh phúc là khi chúng con được cùng nắm tay nhau đi thiền hành trên đồi mận xanh mát giữa gió xuân, hoa cỏ và nắng ấm chan hòa, hay khi cùng ngồi đốt lửa trại uống trà bên nhau ở chòi tình huynh đệ, hay đơn giản chỉ là cùng cắn hạt hướng dương chung với nhau thôi mà cũng hạnh phúc ngập tràn 🙂

Sư Ông ơi, chúng con rất hạnh phúc vì đã có mặt trọn vẹn cho nhau để cùng thở cùng cười và cùng thương thôi. 

Trăng sao còn đó rạng ngời tương lai…
Măng non Tiếp Hiện“

Thuận Hornig, Wahre  Quelle des Mitfühlenden Handelns (Bernburg) viết:

Bernburg, 26-05-25

Gia đình Tiếp Hiện Thương yêu!

Con nhận thấy rằng mình vô cùng may mắn, hạnh phúc và biết ơn được tham dự Khóa Tu Tiếp Hiện vừa qua tại Làng Mai.

Từ khi bước chân ra khỏi nhà và đặt lại bàn chân vào nhà là cả một hành trình quý giá. Có thể không biết bao nhiêu trang giấy mới có thể tả hết nổi những niềm vui, hạnh phúc khi con được tắm mình trong sự bảo bọc, nâng đỡ, đầm ấm, thân thương không biên giới của toàn thể Tăng Đoàn. Con đã được nuôi dưỡng và phần nào đó lớn lên bằng rất nhiều tình thương của các sư cô: Sắc Nghiêm, Định Nghiêm, Tuệ Nghiêm, SC Sùng Nghiêm v.v.. và đặc biệt là Ni trưởng Chân Không đã dành vô vàn yêu thương cho chúng con bằng sự hiện diện vô cùng tươi mát, mạnh khỏe và sống động mặc dù tuổi đã rất cao và sức cũng có hạn. Sư cô Chân Đức, Đoan Nghiêm đã đem đến cho con nguồn cảm hứng và ý chí để thắp sáng Tâm Bồ Đề trong con.

Con thực sự được sống và cảm nhận được tình huynh đệ quý báu của chị Anh Hương và nhất là của chị Trang anh Tường từng ly từng tý khiến cho con rất cảm động và con xin được khắc nhớ học tập giữ gìn và tiếp tục trao truyền trong phạm vi có thể.

 Con cũng vô cùng hạnh phúc và trân quí khi em Hải Yến nắm tay con và nói sao lại để em đi một mình trong sự nũng nịu vô cùng dịu ngọt mà con chưa bao giờ được trải nghiệm. Tất cả những hoa trái của khóa tu sẽ góp phần cho con được tiếp nối và sẽ tiếp nối một cách tốt đẹp hơn nữa…

Trân quý và biết ơn sâu sắc

Hòa Mai, Chân Đại Tin Tấn (tăng thân Sao Mai Việt Nam), chia sẻ:

Con xin thương mến chào đại gia đình CTT “ Chỉ thương thôi “ .

Hôm nay đã là ngày thứ mười sau khi kết thúc khóa tu tiếp hiện nói tiếng Việt ở Xóm Mới – Làng Mai Pháp, nhưng dư âm và tình thương cũng như năng lượng của khóa tu vẫn còn nguyên vẹn trong con, một khóa tu đã để lại nhiều niềm thương nhớ, năng lượng tái tạo tình thương yêu, quí trọng trong mỗi con người có mặt bên nhau.
Con thấy hạnh phúc và phước báu đã cho con có mặt trong khóa tu này, vì lần đầu tiên con được gặp chị Anh Hương, người chị lớn trong dòng tu tiếp hiện, nhìn cách chị đi , đứng, nói, cười, hình dáng nhẹ nhàng, thanh thản, bước đi chậm đều, nhưng rất vững chãi, con đứng nhìn chị đi mà thấy hình ảnh của Sư Ông hiện về, con thầm thốt lên trong lòng “ sao mà giống Sư Ông quá vậy „. Giọng nói, nụ cười của chị cũng thật hiền dịu, ánh mắt chị nhìn ai cũng thân thương và gần gũi, trìu mến vô cùng. Tất cả chúng con, người ở Việt Nam sang và người Việt ở Đức đến, tất cả đều như được tiếp thêm năng lượng chánh niệm rất đẹp, rất gần, mọi người đến với nhau, trò chuyện, vui chơi như không còn khoảng cách, tất cả đã được xích lại gần nhau, mỗi lần trong vòng tròn pháp đàm, ai cũng được chia sẻ hết lòng, những niềm vui, những lỗi buồn, những khoảng cách giữa hai thế hệ, đã không còn là vấn đề nữa. Con nhớ buổi tối hôm trong vòng tròn chia tay cuối cùng, ai cũng cười nói hân hoan, hát những bài thiền ca thật hạnh phúc, lúc kết thúc, mọi người đều hoan hỉ thiền ôm với nhau, bịn rịn, mãi mà chẳng ai muốn rời, nụ cười cũng nhiều và nước mắt cũng đã rơi, những hình ảnh ấy con sẽ mang theo mãi mãi.

Con đã từng tham gia rất nhiều khóa tu, nhưng con thấy đây là khóa tu mang lại cho con nhiều niềm vui và nhiều cảm xúc nhất, những yêu thương mang đến cho nhau sự trân quý và kính trọng,

Con biết ơn thật nhiều quí Sư Cô ở Xóm Mới, đã hết lòng chăm sóc yểm trợ chúng con, đã tạo rất nhiều điều kiện để cho chúng con được có mặt cho nhau, dù là trong thời khóa của khóa tu và trong các thời gian khác.

Chúng con nguyện đem hết năng lượng yêu thương của khóa tu này để hết lòng thực tập, không phụ lòng Bụt Tổ, Sư Ông và quí Thầy, quí Sư Cô.

Thở nhẹ và sâu mỉm cười trân quý biết ơn.

Thanh Hằng, Chân Khánh Uyển (TT Sao Mai, Hà Nội) chia sẻ:

Con đã về tới Hà Nội được 2 hôm rồi và con đã trở lại làm việc bình thường mặc dù cũng hơi mệt chút do lệch múi giờ. Giờ đây con mới ngồi lại để đọc thư của em Hải Yến và con xin phép được có mấy lời chia sẻ.

Giờ này, được ngồi xem lại những hình ảnh trong khóa tu của mọi người con như thấy mọi cảm xúc đang ùa về trong con với nhiều hạnh phúc, đọc thư này mà như thấy bé Yến ngồi treo veo trên cây cherri mà ở dưới bao người ngả mũ ra chờ quả rơi xuống :)) rồi những đoạn đường đi yên lặng cùng nhau đặt bàn chân lên đồi Thế kỷ nhẹ mà hùng. Những thảm hoa rung rinh mà lần đầu tiên con được bước chân lên đó. Bao nhiêu hình ảnh đẹp đi vào con như một huyền thoại, như được trở về một cô bé đang tung tăng trong truyện cổ tích mà đã từng được đọc ở tuổi thơ… Kể sao cho hết được những xúc động và ngỡ ngàng trong con đã có được trong thời gian ở Làng.

Con là người con được sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, cũng có một chút kí ức về thời bao cấp, rồi được lớn lên trong thời gian đất nước chuyển đổi, phát triển qua nhiều giai đoạn. Và con được làm lên bằng tất cả những chất liệu đó bên cạnh những gì con đã có sẵn từ gia đình huyết thống. Điều may mắn là con được gặp Pháp môn của Sư Ông để con có thể tự mình trở lại chính mình để hiểu mình hơn trong cuộc sống và giúp con có cuộc sống dễ chịu hơn lên mỗi ngày. 

Con không nghĩ rằng con được gặp nhiều Tăng thân người Việt đang sinh sống ở nước ngoài như vậy. Qua thời gian thực tập con học hỏi được rất nhiều từ cả nhà mình. Con cảm nhận được phần nào người Việt sống ở xa quê qua những thế hệ trước và cùng thời với con làm cho con có thêm chất liệu để nhìn lại những tập khí của chính mình. Một cái nhìn mới, con thật sự có cơ hội làm mới lại chính mình. Các chia sẻ về hoạt động của các gia đình Tăng thân, cách các anh chị lớn chơi với các em, những lời chân thật, mở lòng với nhau làm cho Tăng thân mình thật trẻ và dễ thương quá chừng. Vì đều cùng là những người thực tập nên khi được gặp nhau thấy thân thương quá, qua vài câu hỏi thăm là cảm thấy có nhau từ lâu rồi. Những chia sẻ ấn tượng, cảm động và nuôi dưỡng. Con nhớ là có một câu hỏi về xây dựng Tăng thân làm sao để với việc người thọ Giới mà lâu ko đi tụng Giới mà thấy Tăng thân nào cũng nhắc tới, lúc ấy thấy anh Tường có thủng thẳng đáp: „thì CTT thôi“ chỉ cần câu đó thôi đã chứa đựng sự bao dung, cảm thông và tình thương trong đó, chỉ đó thôi mà bao băn khoăn được giải tỏa. Rồi những buổi ngồi chơi vòng tròn chỉ có anh chị em mình thôi ấy thật ấm áp cả nhà nhỉ?! Rồi các buổi đi chơi ra vườn hồng, vui thật là vui… giờ xem lại các bức ảnh đã chụp không nghĩ số nhiều trong ảnh đó đã qua tuổi 50 cũng lâu lâu rồi ấy :)))

Biết kể sao cho hết những niềm vui, vì bao nhiêu giờ phút ở bên nhau là bấy nhiêu khoảng khắc hạnh phúc. Vui mà thật Yên nhỉ.

Con cảm ơn thật nhiều nhân duyên đã có để con được gặp cả nhà mình, từ chị Anh Hương là Sư chị tới các anh các chị lớn trong Tăng thân từ các nơi tới, sự vững vàng của các anh chị, các bạn và các em cho con thêm niềm tin vào sự thực tập. Con thực sự cảm động trước tấm lòng phụng sự Tăng thân và tình thương sâu đậm đã luôn đồng hành và yểm trợ Sư Ông và Quý Thầy Cô.

Tăng thân Hà Nội chúng con hiện nay cũng đông và nhiều gia đình nhỏ, nếu có ai về Việt Nam thì xin được mời ghé thăm chúng con nhé.

Mới chia tay đó thôi mà thấy nhớ nhau rồi, con cũng rất mong được gặp lại cả nhà vào một ngày gần nhất. Con có chút chia sẻ mà vẫn bị dông dài. Con đang hạnh phúc ở đây vì con biết mọi ngưới đang có đó cho con. Con cảm ơn nhiều cả nhà đã đọc tới đây ạ.

Trân quý và Biết ơn _/\_

Con của CTT, Chân Khánh Uyển,

Lỡ hẹn

Thư Thầy viết cho các em tác viên trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội

Ngày 18.7.1974

Các em tác viên TNPSXH,

Hồi sáng tôi đọc một lá thư từ nhà gửi qua, tỏ vẻ lo lắng cho “cuộc đất“ của trường. Mỗi lần có tai nạn xảy ra cho trường là những lo lắng về địa lý lại có dịp sống lại. Không phải là tôi không tin nơi địa lý, nhưng tôi thấy “ tâm lý“ quan trọng hơn “địa lý“ nhiều. Chùa Pháp Vân ngoảnh mặt về hướng nào mới đúng? Cố nhiên là ngoảnh mặt về phía quần chúng. Ngoảnh lưng về phía quần chúng thì buồn cười quá đi, phải không các em?

Đất nước mình bị tai họa liên miên trong mấy chục năm nay, có phải vì địa lý xấu không? Điện Thái Hòa, phủ Chủ Tịch và phủ Tổng Thống đã đặt hướng sai phải không? Theo mấy ông thầy địa lý, có lẽ ta phải thay hướng tất cả mọi tòa nhà hành chánh từ cấp trung ương đến cấp xã ấp. Nhưng chúng ta biết rằng tâm lý quan trọng hơn địa lý: chiến tranh và tai nạn phát xuất từ lòng người. Tâm bình thì thế giới bình, ai cũng biết điều đó, nhưng không mấy ai chịu bình tâm trước khi bình thiên hạ. Câu “nồi da xáo thịt“ và câu “gà một nhà bôi mặt đá nhau“ đứa bé nào cũng học thuộc nhưng không mấy ai khôn lớn mà lại biết thực hành nguyên tắc khôn ngoan kia để tránh cái cảnh tương tàn tương sát. Trường TNPSXH từ ngày thành lập, đã gánh chịu nhiều tổn thất. Bao nhiêu người chết, bao nhiêu người bị thương tích. Mỗi lần có tai nạn xảy ra đến như thế, mỗi người trong chúng ta đều thấy chết trong lòng một phần, và bị thương tích trong trái tim một ít. Hiện Hương và Vinh đang ở bên cạnh tôi; cả hai đều mang thương tích, nhưng thương tích mà tôi mang trong lòng không phải là không đớn đau bằng. Liên, Vui, Hy, Tuấn, Thơ, Lành, chú Trí và bảy người đồng toán công tác, chị Nhất Chi Mai, thầy Thanh Văn, thầy Châu Toàn… Và Diệu, Xuân, Kê, Út, Lành, Ngọc, Nguyện, Triều, Kỷ. Chúng ta là ai mà có thể tránh được thiệt hại, trong lúc toàn dân đang gánh chịu khổ đau? Chúng ta chia sẻ đau xót với dân tộc, chúng ta hiến phần đau thương của chúng ta. Bao nhiêu người đã chết vì bom đạn và hận thù. Những người đã mang thương tích và những người đã ra đi, trong chúng ta, là những người chưa hề đem thù hận gieo rắc. Hồi tháng bảy năm 1967 khi nghe tin Hy Tuấn Thơ và Lành bị giết, tôi viết:

“có mặt đồng bào
có mặt các chị các anh
máu của các em, tôi xin trả về cho non sông
xương của các em, tôi xin trả về cho non sông
máu xương đó trinh nguyên
chưa bao giờ làm hoen ố giống Lạc Hồng.
còn những bàn tay các em
tôi xin trả về cho nhân loại
những bàn tay kia
chưa bao giờ gây tàn hại
những trái tim kia
từ thơ ấu
chưa bao giờ nhận máu hờn căm!
Và da các em đây, xin gửi trả về cho đồng bào
Các em chưa bao giờ chấp nhận cảnh nồi da xáo thịt
Xin hãy dùng những mảnh da của các em đây
Mà vá lại những đường rạch
những vết cắt rướm máu
trên thân hình dân tộc thương đau“

Tất cả chúng ta, những người đã bị thương tích hay đã ra đi đều đã chấp nhận sự hy sinh và những đớn đau với tâm niệm không oán thù. Tay chúng ta, may mắn thay, chưa từng dính máu đồng bào. Công lao chúng ta không có bao lăm, không đáng kể gì, nhưng chúng ta đã biết từ chối bạo lực.

Tôi biết thế nên khuyên các em đừng nên đau xót lắm. Tôi khuyên các em, nhưng cũng là để khuyên tôi. Thương những người đã ra đi, ta biết thương những người còn ở lại. Ta phải sống với nhau cho xứng đáng. Đừng để đến khi mất đi người đồng sự ta mới biết tiếc nuối. Sống thì bắt nhịn đói nhịn khát. Chết đi mới làm cỗ bàn linh đình để hiến cho những con ruồi. Chúng ta hay lãng quên. Vì những tị hiềm phân bì nho nhỏ, chúng ta không cho nhau những ngọt ngào thương mến. Ta làm việc để thỏa mãn ước vọng thương yêu, đâu phải để kể công hay để tích tụ phước đức. Người đồng sự của ta không làm được như ta, điều đó đâu có thể là nguyên nhân khiến ta ngưng bớt công việc của ta. Tôi nghe người ta nói các em làm việc giỏi. Điều đó chưa đủ làm cho chúng ta mừng. Điều quan trọng nhất chưa phải là làm việc giỏi. Điều quan trọng nhất là thương yêu nhau, và biết sống hạnh phúc bên nhau. Chúng ta đi làm việc cho hòa bình, thì chúng ta xây dựng hòa bình trong lòng ta và trong gia đình ta, có phải không?

Tại vì tôi nghĩ THPSXH là một gia đình, nên tôi mới gọi các em là em. Nếu không tôi đã viết: các anh các chị tác viên. Không phải tôi thân cận với các em khóa một hơn với các em khóa hai và khóa ba. Có em tôi chưa được gặp, nhưng không phải vì thế mà tôi có cảm tưởng xa lạ khi nghĩ đến các em. Tôi nghĩ có thể rằng các em khóa ba mà ít chấp chặt và ít thân kiến hơn một vài em khóa một. Khóa nào cũng là TNPSXH. Khóa nào cũng chấp nhận đưòng lối xây dựng bất bạo động, từ bỏ bạo lực, phá trừ hận thù, xây dựng hòa giải. TNPSXH là một cái bè đưa ta tới bờ Phụng Sự, không phải là một gia tài để nâng niu, không phải là một tượng thần để thờ cúng, không phải một cái ngã để tô điểm. Các em đừng sợ mất TNPSXH, mà chỉ nên sợ mất tình thương và ý chí phụng sự. Khi nào thấy không khí TNPSXH khó thở quá thì bỏ mà đi quách; ra ngoài mà thực hiện lý tưởng thương yêu. Có biết bao người không còn trong TNPSXH nhưng đời sống của họ vẫn là một sự tiếp nối của lý tưởng phụng sự bất bạo động.

Em, tôi buồn lắm. Thầy Châu Toàn có hứa với tôi là sẽ tìm đất làm một làng TNPSXH, trong đó mỗi chúng ta có một lô đất để làm nhà và làm vườn. Đi đâu thì chúng ta cũng sẽ có một cái nhà và một cái vườn để tìm về, để nhớ, để thương. Tôi định gặp thầy Châu Toàn để nói: cho tôi một lô đất không xa lô đất của em (Hồi sinh tiền thầy, tôi luôn luôn gọi thầy là em). Và tôi xin thầy duy trì tất cả những cây lớn nhỏ mà có giá trị nghệ thuật trong khu đất làng. Tôi còn mơ ước có nhiều tảng đá lớn, và một con suối chảy qua làng. Em cũng có một lô đất, tôi cũng có một lô đất, Vinh cũng có một lô đất, Hương cũng có một lô đất, thầy Châu Toàn cũng có một lô đất… Chúng ta sẽ làm nhiều công viên nho nhỏ. Làng chúng ta sẽ mát dịu sáng trong như tình thương. Tôi tin thầy Châu Toàn có thể cọng tác với các em để tạo ra một khu làng đẹp đẽ như thế, bởi tôi biết thầy CT là một chân nghệ sĩ. Thầy là vị tăng sĩ cắm hoa đẹp nhất mà tôi quen biết. Tôi biết nếu giao cho thầy việc làm làng cho chúng ta thì ta sẽ có làng rất đẹp, bởi vì tôi tin ở khả năng thẩm mỹ của thầy.

Ngày xưa chúng ta có Phương Bối, cũng là một nơi nương tựa của trường. Khi Phưong Bối mất an ninh, ta có Trúc lâm. Chắc chắn các em đã được hưởng những giờ phút an lạc ở trong lòng chiếc nôi tâm linh đó. Nhưng nay thầy CT không còn nữa, một cây cổ thụ đã bị đổ ngã rồi. Làng TNPSXH, mà tôi muốn đặt tên là làng Hồng nếu ở đó ta trồng nhiều cây hồng ăn trái hoặc là làng Mai nếu ở đó ta trồng nhiều hoa mai, chưa thành hình thì thầy đã ra đi. Tôi mắc kẹt bên này chưa về được, vừa xót xa vừa trống lạnh. Tôi chẳng giúp gì cho các em được cả, nội một chuyện viết thư cho các em mà cũng chẳng viết được thường xuyên.

Thế nào các em cũng làm cho được làng Hồng, các em nhé. Tôi sẽ viết thơ cho anh Thiều, cho thầy giám đốc mới. Chúng ta sẽ để dành nơi làm một công viên kỷ niệm cho chị Nhất Chi Mai, thầy Thanh Văn, thầy Châu Toàn và những anh em khác. Các em tìm cho ra một nơi có đất tốt, cây xanh, có đá, có nước. Tôi mê những thứ đó. Cây, đá và nước là những thứ đẹp nhất: những thứ đó chữa lành thương tích của chúng ta. Và các em hãy cho tôi một lô đất trong làng ấy nhé. Tôi sẽ làm nhà, và xung quanh tôi sẽ trồng rau cải và rất nhiều rau thơm: ngò, tía tô, kinh giới, bạc hà, tần ô, lá lốt, thì là, vân vân. Khi em đến chơi thế nào tôi cũng đải em một bát canh có rau thơm rắc lên trên mặt bát.

Mỗi năm, ta có ít nhất một tháng tĩnh tu tại làng, không hoạt động gì hết. Cả ngày ta đối diện với đá với nước với cây; cả ngày ta đối diện với chính ta. Trồng rau, tỉa đậu, chơi với các cháu nhà bên, ta tìm lại ta, chữa lành thương tích, trang bị thương yêu để sẵn sàng trở lại môi trường phụng sự. Tôi về thì tôi sẽ ở giữ làng cho các em. Tôi sẽ ra cổng làng đón từng em, tôi sẽ ngồi lắng nghe các em than thở, phân trần. Rồi tôi sẽ đưa em về nhà em. Và chiều hôm đó tôi sẽ mở hội mừng em, mời trẻ em trong xóm đến ca hát. Tôi sẽ đọc cho em những bài thơ mà tôi viết để ca tụng tình thương và những bàn tay cần mẫn của các em, cùng những hoa lá mà các em làm xanh tốt trên mọi nẻo đường. Tôi thấy một khu làng như thế quá quan trọng cho chúng ta. Tôi sẽ về làng và đem về làng cho em những người anh, những người chị, những người mẹ để săn sóc cho em khi em cần đến sự săn sóc.

Thầy Châu Toàn tôi quen từ hồi thầy còn tám tuổi. Thầy đến tu viện của tôi trên núi Dương Xuân để hái hoa về trang điểm cho ngày giỗ tổ tại chùa Trà Am. Thầy lúc ấy là chú điệu Hòa. Hòa leo lên cây hoa đại (tức là hoa sứ) hái từng giỏ hoa trắng muốt. Nhưng một cành hoa đại gảy, Hòa té xuống đất, gảy xương ống chân. Thầy Mật Thể (tác giả sách Việt Nam Phật Giáo Sử Lược) bổn sư của Hòa, phải đưa Hòa vào bệnh viện. Thầy ngồi hàng giờ trong bệnh viện với Hòa.

Rồi Hòa được gửi vào học Phật Học Đường Báo Quốc Huế. Sau này mới có tên Hoàng Minh và pháp danh Châu Toàn. Năm 1952, tôi mời thầy Châu Toàn vào Nam, vừa để học thêm sinh ngữ, vừa để sống chung với nhau.

Thầy Châu Toàn có viết vài truyện ngắn. Có một lần tôi nghe thầy kể về cốt chuyện của truyện “lỡ hẹn“ mà thầy định viết (hoặc đã viết mà bản thảo không còn). Cốt chuyện ấy như sau. Một em bé nhà nghèo phải xa mẹ đi làm ăn chốn xa. Một hôm được biết trong tháng tới em sẽ phải đi tới một làng xa để nhận việc, và sẽ đi xe lửa ngang qua làng mình, em mới viết thư cho mẹ:“Mẹ ơi, ngày thứ hai tuần tới con sẽ đi xe lửa ghé qua làng mình năm phút. Xin mẹ ra ga cho con thăm, kẻo con nhớ mẹ quá. Và mẹ đem cho con vài cái bánh ít của mẹ làm, kẻo lâu nay con không được ăn bánh ít ngon của mẹ. Con sẽ đứng ở bậc thang lên toa để chờ mẹ. Xe lửa sẽ đỗ lại chừng năm phút.“ Câu bé trông mãi đến ngày khởi hành. Còn mười phút nữa xe lửa sẽ ghé làng. Cậu nóng ruột. Cậu nhìn ra ngoài. Rồi cậu đừng sát cửa toa xe. Xe lửa hét lên một tiếng, rồi từ từ ngừng lại. Cậu bé nhìn xớn xác. Không thấy hình bóng mẹ. Một phút, hai phút. Rồi ba phút, bốn phút. cậu nhìn ra con đường đất từ xóm ra ga: không một bóng người. Năm phút. Xe lửa lại mở còi, bánh xe từ từ lăn trên đường sắt. Mắt cậu bé vẫn dán vào con đường làng. Không một bóng người. Xe bắt đầu lên tốc độ rầm rập. Cậu bé khóc nước mắt nhòe cả lũy tre và con đường làng. Bỗng cậu gạt nước mắt, trố mắt nhìn. Trên con đường làng đất đỏ, bóng một thiếu phụ chạy, đầu đội một chiếc rổ con. Đúng là bà mẹ của cậu bé. Thấy xe đã chạy rồi, bà đứng dừng lại. Bà nhìn theo con tàu. Cậu bé đưa tay vẫy mẹ, nhưng tàu đã chạy khuất. Cậu trông thấy mẹ, nhưng bà không trông thấy cậu. Cậu đứng trên xe, khóc như mưa. Một người hành khách nắm cánh tay cậu, đưa vào trong toa.

Trong một lá thư cách đây chừng hai tháng, thầy Châu Toàn viết cho tôi:“Em mong có hòa bình để ra Quảng Bình tìm lại mẹ. Mong rằng bà còn sống.“ Không biết mẹ thầy còn sống hay không, nhưng thầy không còn có dịp gặp mẹ nữa. Lời ước hẹn đã không được thành tựu. Ngày thầy mất, 24.6.74, là ngày tôi ước hẹn gặp thầy ở Vạn Tượng để bàn chuyện làm làng Hồng. Nhưng tôi đã không được gặp thầy. Nhận được tin dữ, tôi đóng cửa phòng một ngày. Tôi như một gốc cây bị đốn ngã. Tôi đánh điện về an ủi các em, nhưng tôi thì không ai an ủi được. Sao trên đời lại có những chuyện “lỡ hẹn“ đớn đau đến thế, hả em?

Tôi đọc kinh cầu nguyện cho thầy, cho tôi, và cho các em. Tôi viết những dòng này cho các em khi bên ngoài gió thổi rất mạnh. Tôi xin các em tạm nghỉ công việc một vài ngày. Chúng ta hãy nhìn lại nhau, để biết thương nhau hơn. Tôi gửi em tất cả niềm tin cậy của tôi.

Những năm vắng bóng

Sau khi trang nhà của chúng ta đăng bài „Giọt nước mắt ngày xưa nay đã thành mưa“ của anh Jean Pierre Roussel Chân Linh Từ, anh đã gửi tặng chúng ta cuốn sách anh vừa viết xong với tựa đề: Une Balade avec Thầy (tạm dịch: Cùng Thầy làm cuộc dạo chơi). „Giọt nước mắt ngày xưa nay đã thành mưa“ là một đoạn ngắn trong Une balade avec Thầy.

Trong sách, Jean Pierre kể lại những giai thoại trong đời sống thực tập với vị Thầy kính mến của mình cùng những bài thơ trình bày sự trải nghiệm trong quá trình thực tập. Là một người tiếp hiện cư sĩ anh từng trải qua giai đoạn thối chuyển với nhiều khó khăn, hụt hẫng, nhưng đó cũng là cơ hội để anh hạ thủ công phu và chứng thực được sự giác ngộ mà anh chia sẻ với chúng ta trong bài viết „Những năm vắng bóng“.

Tuy không dễ dàng gì khi nhắc lại khoảng thời gian đó, nhưng tôi xin công nhận một sự thật là, trong đời sống thiền tập với tư cách một thành viên của Dòng Tu Tiếp Hiện, tôi đã rời bỏ Làng trong vài ba năm. Tôi chỉ thỉnh thoảng đến Thiền Đường Hoa Quỳnh với gia đình tâm linh của tôi. Lần cuối tôi về Làng là vào năm 2000, tôi đưa vợ và đứa con trai 4 tuổi về ở tại Xóm Mới vừa mới được mua khi đó.

Tôi nghĩ, không nhất thiết phải trình bày tất cả những nguyên do khiến tôi bỏ Làng, ngoài một nguyên do chính xác là: một phần vì hoàn cảnh gia đình. Từ một người độc thân trước đây, tôi trở thành người “mới lập gia đình“. Một phần khác nữa là vì tôi không có đủ niềm tin vào sự thực tập chánh niệm và không biết làm thế nào để áp dụng sự thực tập vào đời sống mới.

Tuy nhiên, cũng không hẳn là không có sự thực tập trong khoảng thời gian vắng bóng đó. Vì phải sống một đời sống gia đình trong vai trò của một người chồng và một người cha, một đời sống khác hẳn trước kia, nên tôi phải đối mặt với rất nhiều thử thách. Nhất là những đau khổ trong quá khứ lại có dịp trồi lên. Tôi đã gặp những vị thầy dưới những hình thái mới, chẳng hạn như vợ tôi, con trai tôi hay những mâu thuẫn trong chính tôi. Mỗi ngày, tôi thấy rõ những thất bại của mình mà trước kia, trong những năm dài của đời sống độc thân, mà tôi đã hoàn toàn không nhận ra được.

Trong những năm đầu tiên, tôi đau khổ vì đã bỏ Làng và tôi cũng đau khổ vì nỗi khổ niềm đau của chính mình. Ban đêm, tôi thường nghe tiếng gọi của Thầy nhưng tôi không thể đáp lại, ít nhất là tôi đã nghĩ như vậy. Đôi khi tôi rất xúc động. Nhưng dần dần dưới sự chế ngự của lãng quên, tôi trở nên ít nhạy cảm hơn. Tập khí thường ngày đã chiếm thế thượng phong và sự thực tập trở nên ít dần đi. Cũng như tất cả mọi người, đời sống vợ chồng của chúng tôi có lúc lên lúc xuống, có những lúc khó khăn và cũng có những khoảng thời gian tràn đầy hạnh phúc. Nhưng từ từ, những thời kỳ khủng hoảng đến thường xuyên và dữ dội hơn cho tới khi đi đến sự đổ vỡ. Đến lúc đứng bên bờ vực thẳm đó, tôi mới có thể một lần chấm dứt tất cả nỗi khổ niềm đau, vì điều này thật dễ làm.

Đó là vào một buổi trưa, sau khi xong công việc, tôi lật ra xem lại vài cuốn sách của Thầy và tình cờ, một sự tình cờ như người ta thường nói, tôi đặt tay lên một bài thơ ngắn mà Thầy đã đọc cho tôi nghe trong vườn của Thiền Đường Hoa Quỳnh ở Noisy-le-Grand vào mùa Xuân năm 1987. Khi đọc lại bài thơ, nước mắt tôi trào ra và mặt đất bỗng như dần tan biến dưới chân tôi. Nhưng cùng lúc đó hình như có bàn tay của Thầy nắm lấy tay tôi giúp tôi bớt đi sự hụt hẫng.

Một lần nữa, Thầy đã đưa tay ra cứu lấy tôi qua bài thơ này, bài thơ tôi được tăng thân Làng Mai gửi tặng cùng những chiếc bánh chưng vào ngày lễ Giáng sinh năm 1986.

Tôi xin chia sẻ với các bạn bài thơ của Thầy:

Cửa tùng đôi cánh khép
Một mũi tên sáng loáng lìa dây cung
Lao vút tới
Mặt trời nổ tung
Đầy sân hoa cam rụng
Phảng phất bóng vô cùng.

Sau sự kiện trên, tôi quyết định thường xuyên về miền quê ẩn cư vào cuối tuần hoặc tôi ở lại đó vài ba ngày để được đi bộ một mình ngoài đồng ruộng, trên những con đường rừng, đi giữa những cánh đồng cỏ đã từng làm nhân chứng cho thời thơ ấu đầy thương tích của tôi. Tôi muốn trở lại nơi đây, nơi cội nguồn của mình để có thể đưọc nuôi dưỡng một chút. Do đó, tôi đã sáng tác bài thơ “Không có kẻ thù trong ta“.

Dù đã ngưng sự học hỏi và hành trì một thời gian rồi nhưng tôi vẫn nhớ được phương pháp đi thiền một cách thật tự nhiên, đi từng bước chân, thở từng hơi thở, cho đến cái ngày đặc biệt đó. Như một kết quả đến thật bất ngờ, giữa những cánh rừng, trên một con đường trũng, một em bé thoát ra từ bờ giậu trong một vầng hào quang rực rỡ, em tiến tới đưa tay cho tôi như muốn cùng bước đi với tôi.

Điều này chỉ xảy ra trong một một sát na của thời gian, có thể còn ngắn hơn nữa, nhưng tôi thấy rất rõ em bé cười tươi và biến mất ngay khi tay em vừa chạm vào tay tôi, để lại cho tôi cái cảm giác như được tắm trong sự trong sáng thật êm dịu. Tôi không ngừng bước đi, tôi vẫn cảm thấy sự có mặt của em bé trong tôi, thân tôi nhẹ nhàng và tràn ngập hạnh phúc, đầu tôi rỗng rang, hết sạch những ưu phiền, buồn khổ. Đây là một cảm giác không thể diễn tả được bằng ngôn từ. Tôi bước đi thêm vài mươi thước trong tình trạng như thế trước khi chia tay với em bé, rồi thân tâm tôi trở lại trạng thái thường ngày.

Tuy nhiên, một sự thay đổi đã xảy ra. Tôi bớt khổ, trở nên nhẹ nhàng và chăm chú hơn. Sự kiện này đã xảy ra tại nơi mà hồi ấu thơ, trong một căn nhà xa lạ, tôi đã trải qua một đời sống thôn quê đầy bạo lực.

Em bé bên trong

Như tia chớp,
Như ánh hào quang thoát ra từ bờ giậu,
Em bé rạng ngời nắm lấy tay tôi.
Gió ngừng, rừng cây lặng yên,
Và muông thú cũng im lìm.
Trong từng bước chân, nụ cười gặp gỡ,
Cùng thở không ngày mai,
Khoảnh khắc, thiên thu, thanh thản.
Những viên đá cuội bên đường,
Chiếu ngàn ánh sáng mong manh.
Tự do, không buồn vui
Không đau khổ cũng không hạnh phúc.
Không gian mát dịu, dưới trời thái không,
Từng bước đi, quá khứ lắng êm, hận thù tan biến,
Rừng cây làm nhân chứng cho tôi…

Parlan – Mùa Xuân 2008

Sau đó, một mình, tôi tiếp tục làm những cuộc hành trình dài, nuôi dưỡng mình bằng niềm vui đơn sơ của thiền đi, và nhờ đó chữa lành được thân tâm.

Một ngày nọ, vợ tôi rủ tôi về Thiền Đường Hơi Thở Nhẹ mới vừa xây dựng xong vào mùa Thu năm 2008 để thực tập trở lại. Tôi không đồng ý, viện cớ mình đã vắng mặt quá lâu và cảm thấy không đủ tư cách để quay lại. Nhưng cuối cùng, một năm sau đó, tôi cũng bị thuyết phục nhân dịp một buổi đi thiền cho hòa bình được tổ chức tại Paris năm 2009.

Cho đến tháng 6 năm 2010, tôi mới gặp lại Thầy tại Đức. Tôi đến đó cùng với một cô bạn thân cũng từ lâu làm thân cùng tử như tôi. Chúng tôi muốn thọ lại 14 Giới Tiếp Hiện, vì những vị Tiếp Hiện không đọc tụng và giữ gìn giới thể trong vòng 3 tháng đều phải làm như thế.

Thầy đang đi với với các thầy và các sư cô từ nhà ăn của Viện Phật học ứng dụng châu Âu về phía tòa nhà lớn của bệnh viện cũ thì dừng lại. Thầy quay về phía hai chúng tôi, chắp tay búp sen và cúi chào thật sâu.

Tháng 7 cùng năm 2010, khi tôi đang sinh hoạt tại xóm Trung với cộng đồng người Việt nhân dịp tôi trở lại Làng Mai thì Thầy đến để tham dự một ngày làm biếng với chúng tôi. Trong buổi pháp thoại, chia sẻ và vấn đáp Thầy hỏi:

Có ai muốn chia sẻ điều gì hay đọc một bài thơ nào không?

Có nhiều bàn tay đưa lên. Ngồi tận sau cùng trong góc thiền đưòng, tôi cũng đưa tay lên, không ngại tay mình sẽ được nhận ra sau một rừng bàn tay. Nhưng thật xui cho tôi, tôi rất kinh ngạc khi nghe tiếng của Thầy cất lên, tôi không nhìn thấy Thầy vì Thầy đang ngồi trên một chiếc ghế bành. Thầy hỏi bằng tiếng Pháp:

Tay của ai đang giơ lên ở trong góc đó?

Tôi trả lời hơi rụt rè:

Dạ là con, Jean Pierre.

Thầy lặp lại lớn lên tên tôi: A! anh Jean Pierre…! Giọng nói của Thầy rõ ràng có sự trách móc. Thầy mời tôi đọc lên bài thơ tôi vừa làm xong vài phút trước khi gặp Thầy.

Ngồi dưới gốc cây

Lá cây mềm mại, nụ vừa chớm hé
Đã báo Thu sang,
Mặt trời mùa gặt nóng cháy dự đoán mây mùa Đông nặng trĩu,
Cành khô gầy quằn quại dưới tuyết đông.
Thân cây sậm màu thời gian
Ôm ấp nhựa sống trong lòng rễ.
Bốn mùa trôi qua, trái chín ngọt,
Đông trải đường cho Hạ, Xuân ước hẹn với Thu.
Ngồi dưới gốc cây,
Bao nhiêu lời ta nói
Mà không gửi theo làn gió reo vui?

Chân Linh Từ

Dịch từ “Les années d’absence“ trong sách “Une balade avec Thầy“ của Jean Pierrre Roussel

Cùng bước với Thầy 

Allan Badiner

Hồi ký 30 năm cùng chung bước với một thiền sư Việt Nam của Allan Badiner, một đệ tử lâu năm của thiền sư Nhất Hạnh

Trở lại khoảng thập niên 80, tôi có quen với một anh thiền sinh cư sĩ tên Michael Attie. Giới truyền thông thường gọi Michael là “ông tu sĩ đồ lót” tại vì có một lần anh tổ chức một buổi ngồi thiền trên sân thượng cơ sở kinh doanh của anh. Đó là tòa nhà Playmates Hollywood, một trong những cửa hàng kinh doanh đồ lót lớn nhất thế giới. 

Vì anh cứ luôn rủ rê nên năm 1987, vào một ngày chủ nhật, tôi đã nhận lời cùng anh tới gặp một ông thầy tu Phật giáo người Việt Nam cũng là một nhà hoạt động chống chiến tranh. Thầy đang có một buổi nói chuyện dưới gốc cây gọi là “Teaching Tree” của Hiệp Hội Ojai, cách Los Angeles khoảng 90 phút lái xe. Hiệp hội do Joan Halifax, một nhà nhân chủng học, thành lập. Joan Halifax từng làm việc chung với Joseph Campbell, một nhà văn và thần thoại học nổi tiếng với câu châm ngôn mà chúng ta thường nghe ”Hãy theo đuổi hạnh phúc của đời bạn”. Mục đích của hội là kết hợp các nhà giáo gốc Hoa Kỳ và các thiền sư Phật giáo cùng giảng với nhau trong một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ đối diện với rặng núi Topa Topa.

Lần đầu tiên vừa nhìn thiền sư Thích Nhất Hạnh (thường được học trò gọi là “Thầy”), trong tiếng Việt có nghĩa là “thầy giáo”, tôi đã bị thu hút bởi sự trầm lặng nơi Thầy. Tôi vẫn luôn nhớ cái cách Thầy bắt đầu câu nói:” Quý anh chị thân mến, cuộc ước hẹn với sự sống của chúng ta chỉ có thể có mặt trong giây phút hiện tại.”. Người ta thấy rõ ông thầy tu dễ mến và đầy nhiệt quyết này là một thí dụ sống để cho chúng ta hiểu thế nào là một vị Bụt.

Trong chiến tranh Việt Nam, phe Cộng sản cho Thầy là CIA, và CIA thì cho Thầy là Cộng Sản. Bị cấm trở về nước, Thầy sống lưu vong ở Pháp. Cùng năm đó Thầy được ông Martin Luther King Jr. đề cử giải Nobel Hòa Bình. Khi Thầy nói về hòa bình thì chúng ta cảm thấy một sự bình an thật sự phát sinh ra trong ta và chung quanh ta.  Thầy lấy sự giảng dạy thực tập chánh niệm và nghệ thuật chế tác bình an cho tất cả các quốc gia có liên quan đến cuộc chiến dai dẳng và tàn hại trên đất nước và dân tộc của Thầy làm sự nghiệp của đời mình, tôi tin chắc như vậy. Liền ngay sau buổi nói chuyện đó thì tôi trở thành một thành viên trong cộng đồng của Thầy, một cộng đồng được nhà văn Phật giáo Rick Fields gọi là “Tăng Thân lưu động quốc tế và liên tôn” (International and interdenominational floating sangha) và tôi tham dự khóa tu 10 ngày cho văn nghệ sĩ được tổ chức tại Ojai.

Từ đó, trong suốt 10 năm, tôi tham dự các khóa tu mùa hè tại Làng Mai, một trung tâm tu học ở miền Tây Nam nước Pháp. Tôi tháp tùng Thầy trong 3 chuyến đi thuyết giảng ở Ấn Độ, tham gia những chuyến hành hương ở Nhật, Trung Quốc và Việt Nam, tiếp đón Thầy ở Rom và được Thầy làm chủ hôn trong lễ cưới. Tôi thấy được ở Thầy một con người và một bậc thầy, cái phong thái nhẹ nhàng, dễ thương có lúc giống như trẻ thơ cùng với sự dũng mãnh và trung thực đến vô tình. 

Đối với tôi Thầy là một người cha, một người thầy, một ngôi sao nhạc Rock và cũng có khi là một người xa lạ. Thầy giống ba tôi một cách lạ lùng, từ tướng mạo (kể cả cái khoảng trống giữa hai răng cửa) cho tới tính cách biết chừng mực. Thầy có sức chịu đựng bền bỉ của một người kém hơn 20 tuổi. Tôi vẫn thường kinh ngạc vì năng lượng đi hoằng pháp khắp nơi không ngừng nghỉ của Thầy, và đồng thời Thầy cũng còn có thời giờ để sáng tác ra hơn 100 cuốn sách và giảng hơn ngàn bài pháp thoại công cộng.

Khi số Tricycle này đang được phát hành thì ông Thầy 88 tuổi đang nằm trong bệnh viện sau khi bị xuất huyết não. Tôi chỉ là một trong mười ngàn người trên khắp thế giới tích cực tham gia cầu nguyện cho Thầy được hồi phục, ngược lại với sự chẩn đoán.  Thật là khó cho tôi khi phải quán chiếu sự sống trong một thế giới không có thầy Thích Nhất Hạnh. Tất cả các quan niệm của cá nhân tôi về những chủ đề sâu sắc của sự hiện hữu, về ý nghĩa của sự sống, về tình thương, về cho và nhận và về cái chết đều được hình thành một phần không nhỏ bởi những bài giảng và lối sống gương mẫu của Thầy. Trong khi Thầy đang ở trong tình trạng giữa sống và chết thì tôi không thể nào không hồi tưởng lại những khoảng thời gian thực tập đánh dấu cho cuộc hành trình của tôi cùng Thầy trong 28 năm qua.  

Hạnh phúc không phải là vấn đề cá nhân 

Một buổi tối ở Sanarth, Ấn Độ, nơi Bụt đã cho bài pháp thoại đầu tiên, Thầy thức rất khuya để cùng tôi viết ra Năm Phép Thực Tập Chánh Niệm dưới ánh nến. Bài này sẽ được đọc như lời phát nguyện trong lễ cưới của tôi, một lễ cưới bằng tiếng Anh đầu tiên mà Thầy làm chủ lễ. Thầy dịch sơ từ tiếng Việt ra tiếng Anh và tôi cố gắng hết sức để trau chuốt lại. Nhưng rồi tôi nhận ra rằng Thầy đã soạn ra như thế nào đó để tôi có thể nhớ được trong buổi lễ. Hôm sau, sau khi đi một vòng quanh tháp Dhamekh, tiệc cưới được bày ra dưới góc một cây xoài to và chúng tôi đọc Năm Phép Thực Tập Chánh Niệm mà trọng tâm là ý thức được hạnh phúc không phải là một vấn đề cá nhân. 

Chúng con ý thức rằng tất cả các thế hệ tổ tiên và con cháu đều đang có mặt trong chúng con. 

Chúng con ý thức sự mong đợi của tổ tiên, của con cháu và của con cháu họ nơi chúng con.

Chúng con ý thức rằng niềm vui, sự bình an, tự do và sự hòa hợp của chúng con là niềm vui, sự bình an, tự do và sự hòa hợp của tổ tiên con, của con cháu con và của con cháu họ. 

Chúng con ý thức rằng sự hiểu biết là yếu tố căn bản nhất của tình thương.

Chúng con ý thức rằng trách móc và tranh cãi không bao giờ giúp được cho chúng con mà chỉ tạo thêm sự xa cách; chỉ có sự hiểu biết, sự tin tưởng và tình thương mới có thể giúp cho chúng con thay đổi và lớn lên. 

Vợ tôi và tôi phải đọc lời phát nguyện này mỗi giữa tháng với sự chứng kiến của các thành viên trong tăng thân, hoặc như lời Thầy nói: “Hôn nhân có thể tan vỡ”. Điều này đã xảy ra 20 năm sau.

Công năng của sự thực tập đơn giản

Khóa tu trên núi Fuji, Nhật bản, vừa kết thúc thì chúng tôi vội vã rời đi ngay để bắt kịp xe lửa. Thầy đang vẫy chào các sinh viên đến bến xe để tiễn Thầy. Cửa xe lửa vừa đóng lại thì tôi thấy nhiều bạn sinh viên đột nhiên quỵ xuống đất giống như là họ cùng ngã lăn ra bất tĩnh cùng một lúc vậy. Khi chúng tôi đến nơi (Kamakura) thì bỗng nhiên tôi không nhìn thấy gì nữa cả và cũng không sử dụng được hai chân của mình. Richard Baker chở tôi tới Ryokan (một nhà trọ truyền thống Nhật bản). Thầy và sư cô Chân Không ở sát bên tôi cho đến khi tôi cảm thấy khá hơn. Sau này chúng tôi biết là do một loại nấm người ta hái trên núi để nấu thức ăn cho khóa tu sau. Nấm có độc và hơn 60 người đã phải nhập viện. Trong số những người theo Thầy chỉ có tôi là đi lấy một ít thức ăn trưa trong nhà ăn trên đường ra trạm xe lửa. Tôi nhớ tới pháp môn đơn giản “thở và cười” mà Thầy đã dạy và tôi bắt đầu thực tập để có thể đối phó với nỗi lo sợ không biết là mắt mình có thể nhìn thấy trở lại được hay không. 

Không thiên vị 

Thầy là vị thầy mẫu mực đối xử với công bình với tất cả mọi người, mặc dù một vài đệ tử nước ngoài thường có khuynh hướng muốn tìm sự chú ý, sự khen ngợi và sự công nhận của Thầy. Sự công nhận của Thầy, phần lớn là một nụ cười và thỉnh thoảng Thầy nhấp nháy mấy ngón tay hoặc là được Thầy mời vào trong cốc uống trà nhưng rất hiếm khi. Được Thầy của mình công nhận là một sự mong đợi hợp lý, và Thầy cũng hành xử như thế nhưng với một mức độ tối thiểu. Tôi rất kính phục cách hành xử không phân biệt của Thầy đối với học trò, mặc dù vì thế cho nên nhiều vị đệ tử lâu năm của Thầy cảm thấy bất mãn vì bị đối xử giống như những thiền sinh vừa tới thực tập lần đầu tiên. Và họ đã bỏ đi không đến nữa. Một anh học trò đã bỏ đi hỏi tôi:”Anh không cảm thấy mệt mỏi vì cứ phải nghe lặp đi lặp lại như vậy à?”Tôi không cần suy nghĩ lâu để trả lời câu hỏi anh ta. Tôi nói, vì tính của tôi mau quên nên nghe đi nghe lại một bài pháp thoại rất có ích cho tôi. Đôi khi, tham dự một khóa tu của Thầy cũng giống như là thực tập với Bụt lịch sử. Thầy vẫn hay nói:”Tôi không phải là Bụt đời này. Quí vị đừng chờ đợi một vị Bụt đời này. Bụt đời này chính là Tăng Thân.”

Đón nhận cái mới

Năm 1995 tôi lập trang nhà cho các tổ chức và các nhóm, và công việc này rất có ý nghĩa đối với tôi. Tôi và Arnie Kotler, một đệ tử khác của Thầy, cùng làm một tủ sách trên mạng cho nhà xuất bản của Thầy là Parallax Press. Và lần đầu tiên chúng tôi giới thiệu Thầy Thích Nhất Hạnh và những pháp môn của Thầy trên mạng.  Đầu năm 1996 tại Làng Mai, chúng tôi trình bày thử trang mạng mới này cho Thầy, quý thầy quý sư cô và vài học trò tại gia của Thầy xem. Phản ứng của người xem rất là tích cực, đối với một vài vị thì đây là lần đầu tiên mà họ nhìn thấy một trang mạng. Nhưng có một cô học trò phản đối thật hùng hồn về mặt triết học. Cô cho rằng trang mạng là công cụ của các tập đoàn, là sự mở rộng lòng tham và sự thống trị của họ đối với giai cấp công nhân. Cô không thích ý tưởng thu nhỏ vị thầy tâm linh của mình lại thành những tính hiệu nhị phân 1 và 0, và Thầy được chế tạo ra bằng điện tử cho những mục tiêu thương mại. Tôi sửng sốt!

Thời gian dành cho buổi thuyết trình đã hết và mọi người quay về công việc của mình. Thầy đến gần tôi nói, Thầy rất thích trang nhà này và khuyên tôi đừng nên nản chí. Thầy đồng ý là công nghệ thông tin rất có ích trong việc truyền bá pháp môn thực tập. Và Thầy chấp thuận cho trang mạng được tiến hành. 

Trẻ em là ưu tiên số một

Thầy luôn mời trẻ em nắm tay Thầy đi thiền hành trong những buổi giảng hay trong những khóa tu. Thầy thích thực tập với những người trẻ. Có vẻ như họ tiếp thu được rất nhanh pháp môn thiền hành và thực tập giỏi hơn cả người lớn. Con gái của tôi, nay đã trưởng thành, vẫn rất trân quý kỷ niệm được đi thiền hành với Thầy. Lúc nó 6 tuổi, Thầy đã ngừng lại giữa buổi pháp thoại để gởi lời chúc bình an sau khi được tin nó ngả bệnh vào đêm qua. Sau này, khi tôi đến cảm ơn Thầy thì Thầy nói ngắn gọn là tôi đừng nên cảm ơn Thầy mà hãy biết ơn vì con gái tôi đã không sao. 

Có một lần chúng tôi cùng ngồi thành vòng tròn với Thầy trong Vườn Tre, nơi ngày xưa được dùng làm chỗ ở của Bụt và tăng đoàn. Bây giờ nơi này đã trở thành công viên công cộng bị bỏ phế của một ngôi làng ở thành phố Rajgir. Chúng tôi ngồi im lặng, lắng nghe những tiếng động chung quanh. Giữa những tiếng chim kêu ồn ào đó bỗng nhiên xuất hiện em bé trai và một em bé gái khoảng 7, 8 tuổi. Chúng đến ngồi dưới chân Thầy và đưa tay ra xin ăn. Thầy ra dấu cho chúng đến ngồi kế bên và nắm tay chúng trong suốt buổi viếng thăm đó để bày tỏ tình thương.

Có mặt cho người khác 

Chúng tôi chuẩn bị leo lên Ngũ Đài Sơn, một ngọn núi thiêng liêng của Phật giáo ở Trung Quốc. Bỗng nhiên Thầy kêu gọi mọi người trong xe buýt (phần đông là quý thầy và quý sư cô) hãy đi thật chậm và chỉ bước một bước chân thật chánh niệm cho mỗi hơi thở. Thầy thấy đau lòng khi nhìn thấy học trò xuất sĩ của mình hấp ta hấp tấp như những khách du lịch khác. Trước đó tôi đã thấy Thầy ngồi quan sát các thầy, các sư cô đi thiền trong bãi đậu xe từ cửa sổ xe buýt. Có vẻ như là Thầy rất vui. Khi chúng tôi leo từng bước rất là nghi lễ lên con đường mòn đá cũ thì có những nhóm nhỏ khách du lịch trung quốc vượt nhanh qua chúng tôi và sau đó trở xuống lại mà hình như cũng chẳng nhận ra sự hiện diện của chúng tôi. Tôi nghĩ là chúng tôi đã chế tác ra một thứ năng lượng khác lạ nào đó khiến mình trở nên vô hình đối với họ. 

Khi tới gần ngôi chùa trên Ngũ Đài Sơn thì tôi hiểu ra rằng Thầy muốn năng lượng chánh niệm tập thể của phái đoàn sẽ tạo một ấn tượng cho vị trụ trì của ngôi chùa. Sau khi vào trong chùa, giữa khung cảnh của toàn tỉnh Sơn Tây Trung Quốc bao quanh, Thầy và Shantum Steth, anh hướng dẫn viên người Ấn và cũng là học trò lâu năm của Thầy, tổ chức một buổi thiền trà nghi lễ với vị trụ trì trong sự chứng kiến của phái đoàn. Thầy cười thật tươi, có còn khi bật cười to lên nữa. Niềm vui của Thầy lan rộng đến mọi người có mặt trong lúc đó. Chúng tôi là một nhóm người hành hương rất hạnh phúc đang tận hưởng một buổi hoàng hôn mà chúng tôi chắc rằng hùng vĩ nhất trên toàn nước Trung Quốc. 

Lớn lên và thay đổi

Trong chuyến hành hương đầu tiên ở Ấn Độ vào năm 1987 thì sự di chuyển trong khu vực Phật giáo (một khu vực nghèo nhất ở Ấn Độ) thật là vất vả. Đường đi gập ghềnh, nhà trọ thì đầy loại gậm nhấm và không có cả nước máy. Mặc kệ sự phản đối của Thầy, tất cả mọi người, kể cả quý thầy và quý sư cô, đều nhất quyết vào một khách sạn sang trọng mới xây của người Nhật để ăn mì và tắm rửa. Thầy ngồi lại một mình trong xe buýt nóng tới bốc khói. Đối với tôi, lúc đó Thầy trở nên một con người thực hơn bao giờ hết. Sau đó, tôi đi viếng các hang động gần ngọn núi. Tôi vào một động có tên là Động Bụt. Vào bên trong, thấy Thầy đang thắp hương nên tôi quay ra để không làm phiền Thầy. Nhưng Thầy mời tôi ở lại, nở một nụ cười thật ấm áp, và rời khỏi hang động ít phút sau đó. Trong những lần viếng thăm thành phố Rajgir sau này thì Thầy đến ở khách sạn nhật bản cùng với mọi người.

Chấp nhận những thử thách 

Tôi, sư cô Chân Không và Thầy – lúc đó 80 tuổi – cùng leo lên những ngọn núi gần tu viện Lộc Uyển ở San Diego. Thầy và sư cô rất thích những ngọn núi này. Thầy không có một dấu hiệu mệt mỏi nào, mặc dù vừa hướng dẫn xong khóa tu một tuần cho gần 200 thiền sinh. Thầy leo lên thật chậm rãi và thong thả, chọn chỗ đặt chân lên một cách cẩn thận. Ấy vậy mà tôi vẫn phải ráng sức leo cho nhanh để bắt kịp Thầy. Khi lên tới đỉnh chúng tôi đứng lặng yên một lúc để thưởng thức gió mát và quang cảnh chung quanh. Chúng tôi nói với nhau, đứng nhìn ở góc độ này thật là thú vị – mình ở trên cao bỏ lại những vấn đề đang chờ mình phía dưới. Rồi Thầy thú nhận một điều khiến tôi giật mình. Thầy cảm thấy sức mình từ từ yếu đi bởi cái trách nhiệm đối với bao nhiêu là đệ tử, trong đó có cả đệ tử xuất gia.  Họ chờ đợi Thầy phải luôn hành xử như một siêu nhân trong mọi tình huống. Đó là sự thử thách không ngừng đối với Thầy. Thầy nói, so với những lúc cảm thấy thoải mái thì Thầy phải nổ lực nhiều hơn để có được cái cảm giác tự do. Tôi nhận ra rằng làm một vị thầy không phải là công việc dễ dàng và tuyệt vời như mình nghĩ. Lợi ích của việc trở thành người lãnh đạo, chủ yếu là dành cho người khác. 

Từ lần gặp gỡ đầu tiên với Thầy dưới gốc cây ở Ojai, tôi và những người có mặt ở đó đã nhận ra rất rõ là Thầy có một khả năng truyền đạt giáo lý Bụt thật phi thường – lời nói đi đôi với việc làm. Thầy sử dụng những từ ngữ giản dị, cân nhắc, sâu sắc, cũng như mọi động tác của thầy đều được tẩm bằng chánh niệm. Giọng nói của Thầy có hai tính chất – vừa dịu dàng vừa mãnh liệt – không khác gì giáo pháp mà Thầy đã cống hiến hết cả cuộc đời của mình. 

Học với Thầy có thể giúp tôi chuẩn bị tốt cho một sự chuyển tiếp, như là hành xử như thế nào trong tình trạng hiện nay của Thầy. Chính Thầy đã nói:

Thân này không phải là tôi; tôi không bị kẹt vào nơi thân ấy. 

Tôi là sự sống thênh thang,

Tôi chưa bao giờ từng sinh và cũng chưa bao giờ từng diệt.

Nhìn kia biển rộng trời cao,

Tất cả đều biểu hiện tôi từ nguồn linh tâm thức.

Tự muôn đời tôi vẫn tự do.

Tử sinh là cửa ngõ ra vào.

Tử sinh là trò chơi cút bắt. 

Là một người cha tâm linh của bao nhiêu người, Thầy nhắc nhở cho chúng ta rằng, cha mẹ ta vẫn còn sống dù cho là họ đã qua đời. Họ đã tặng cho chúng ta một món quà cuối cùng. Đó là một phần của chính chúng ta. Thầy giải thích, có một phần tinh hoa nằm ngủ sâu trong ta cho tới khi cha hay mẹ ta qua đời. Khi cha hay mẹ ta mất thì cái phần tinh hoa ấy sẽ thức dậy, và ta sẽ trở thành ta một cách trọn vẹn.  Nói cách khác là “cha mẹ ta không bao giờ chết, họ vẫn tiếp tục sống trong ta.”

Thầy nói: 

Hãy nắm tay tôi 

Hãy vẫy chào

Để rồi tức thì gặp lại.

Gặp lại hôm nay

Gặp lại ngày mai

Chúng ta đang gặp nhau nơi suối nguồn.

Chúng ta sẽ gặp nhau từng phút giây trên muôn ngày nẻo sống. 

(Dịch từ“On the path with Thay“ của Allen Badiner đăng trên tạp chí tricycle, số mùa xuân 2015)

Mỗi bước chân là phép lạ

Thương mến tặng em 

Như có lần Thầy đã từng nói: „Thầy có một sự may mắn là thầy chưa bao giờ đánh mất liên lạc với tuổi trẻ„. Tôi cũng có cơ duyên là luôn được tiếp xúc với rất nhiều những bậc thiện tri thức cũng như những người trẻ. 


Một trong những bạn trẻ mà tôi quý mến là em Khoẻ. Gặp em lần đầu tiên trong chương trình „Buổi sáng bình an“ do thầy Minh Hy tổ chức tại cửa biển Thuận An. Tôi cứ thắc mắc không hiểu sao trong khi mọi người đi thiền hành trên bờ biển thì em ấy ngồi yên. Lúc đầu tôi cứ ngỡ chắc em ấy bị ốm vì cũng thấy mọi người quan tâm hỏi han và gọi ra chụp ảnh lưu niệm nhưng em ấy vẫn ngồi yên. Tôi đem thắc mắc này hỏi anh bạn đi cùng thì mới biết rằng em ấy bị liệt từ năm 18 tuổi và sau đó em đã đi bằng đôi chân của anh trai mình. Một người anh trai phải có một tình thương rất lớn mới có thể làm đôi chân cho em, cõng em đi tham dự mọi hoạt động của tăng thân. 


Sau khi kết bạn trên Facebook, thỉnh thoảng đọc những dòng chia sẻ về sự thực tập của em, tôi biết em đã nương vào pháp môn của Thầy rất nhiều để vượt qua chướng duyên mà em gặp phải. Em đã chuyển hóa từ tuyệt vọng khi biết tin mình không thể đi được nữa, dần dần nhờ pháp môn mà em có thể bình thản chấp nhận và còn truyền năng lượng bình an, tích cực cho mọi người. Tôi quý mến em từ đó. 


Tôi luôn theo dõi các bài viết cũng như hành trình cuộc đời của em. Và khi nghe tin em có thể được làm phẫu thuật để hồi phục lại đôi chân, rồi những ngày em mổ, quãng thời gian em bình phục, bắt đầu tập những bước chân đầu tiên tôi đã rất xúc động. Dù ở xa nhưng tôi luôn động viên và gửi năng lượng bình an tới em. 


Rồi một ngày cuối tháng 8, em nhắn cho tôi là sắp ra Hà Nội và nếu được anh em gặp nhau. Tôi đã bảo với em rằng: „chắc chắn anh sẽ gặp em dù có bận đến đâu„. Em bảo giờ chân đỡ hơn rồi, dù vẫn phải dùng thiết bị trợ giúp nhưng em muốn đi ra miền Bắc, muốn đi lên vùng Tây Bắc, Sapa. Em muốn đi khắp nơi, ra khỏi „lũy tre làng“ ở Huế. Em muốn đi cho cha, cho mẹ, những người dù đã lớn tuổi mà chưa có cơ hội đi đây đó. 


Nhìn những bước chân chậm rãi của em bước đi trên vỉa hè Hà Nội làm tôi rất xúc động. Những bước chân đó rồi sẽ đi lên núi cao, lên những bản làng ở biên giới phía Bắc. Dù rất khó khăn nhưng sẽ là những bước chân huyền thoại. Em sẽ đi thay cho Thầy, thay cho cha mẹ em tới những miền đất lạ. Khi nhìn những bước chân đó, tôi nhớ lời Thầy đã dạy:

„Phép lạ không phải là đi trên than hồng, phép lạ không phải là đi trên mặt nước. Phép lạ chính là đi những bước chân thảnh thơi và bình an trên đất Mẹ. Hãy đi như đôi chân mình đang hôn lên mặt đất.“


Tôi đã ghi lại những lời dạy này vào cuốn „An lạc từng bước chân“ của Thầy và tặng em. Tôi mong rằng khi em mang theo cuốn sách bên mình, thì em sẽ được tiếp nhận năng lượng an lành từ Thầy, như Thầy đang cùng bước đi theo em trong suốt hành trình. Em đã mang cuốn sách lên tận đỉnh Fansipan và tôi cảm thấy như Thầy, như tôi cũng đang có mặt ở trên đó cùng em. 


Cảm ơn em đã có mặt cho tăng thân, đã truyền những năng lượng tích cực tới cho mọi người. Chúc em luôn khoẻ mạnh, bước chân sẽ dần vững chãi như chính cái tên KHOẺ rất ý nghĩa mà cha mẹ đã đặt cho em. Chắc chắn tới một ngày nào đó, em sẽ tự mình bước đi trên mặt đất. 


Hà Nội, 11/9/2019
Tâm Đại Bi

Thu dạ độc tọa – Ngồi một mình trong đêm thu – Vương Duy và tuệ giác vô sinh

Thu dạ độc tọa 

Độc tọa bi song mấn
Không đường dục nhị canh
Vũ trung sơn quả lạc
Đăng hạ thảo trùng minh
Bạch phát chung nan biến
Hoàng kim bất khả thành
Dục tri trừ lão bệnh
Duy hữu học vô sinh 

Ngồi một mình trong đêm thu 

Một mình ngồi tóc mai buồn
Canh hai vừa vọng gian phòng vang vang
Trong mưa rơi rụng trái rừng
Dưới đèn nghe tiếng côn trùng nỉ non
Tóc xanh rồi bạc lẽ thường
Thời vàng son ấy có còn gì đâu
Bỗng nhiên ngộ thoát bệnh già
Chỉ khi chứng được cái nhìn vô sinh


Đọc bài thơ „Thu dạ độc tọa“ (Ngồi một mình trong đêm thu) của Vương Duy, bỗng nhiên thấy cảm thán nên viết vài lời tâm tình chia sẻ với các bạn. Tôi tạm dịch bài thơ theo cái hiểu còn rất hạn hẹp của mình. Bài thơ dịch còn nhiều thiếu sót xin các bạn hoan hỷ bỏ qua cho.

Vương Duy là thi sĩ, họa sĩ, nhạc sĩ và nhà thư pháp nổi tiếng thời Thịnh Đường. Ông là người thông hiểu Phật pháp nên thơ của ông thấm đượm mùi Thiền. Bài thơ ”Thu dạ độc tọa” không phải là bài thơ nổi tiếng nhất của Vương Duy nhưng nó chứa đựng tuệ giác vô thường, cái ý thức muốn vượt thoát sinh-lão-bệnh-tử thì chỉ có con đường duy nhất là thực tập để đạt tới cái thấy vô sinh tức cái thấy”vô sinh bất diệt – không có không không” của đạo Bụt. Đó là mục đích tối hậu của người tu tập.

Độc tọa bi song mấn
Không đường dục nhị canh

Một mình ngồi tóc mai buồn
Canh hai vừa vọng gian phòng vang vang

Độc là một mình, tọa là ngồi, song mấn là hai bên tóc mai.

Đây là hình ảnh của một người tuổi đã xế chiều. Ngồi một mình và nhận ra rằng, hai bên tóc mai của mình đã bắt đầu phai màu.

Với cái tuổi đời chồng chất, trải qua bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời, mình ngồi lại một mình và bỗng nhận ra hai bên tóc mai đã bạc. Cảm thấy một chút thê lương? Giờ phút này mình mới được ngồi yên mà nhìn lại mình cho rõ, cái giờ phút này thật quý báu mà có người cho đến hết cuộc đời cũng không bao gờ có được.

Nhị canh là canh hai. Mỗi canh có hai giờ đồng hồ. Canh một bắt đầu từ 19 giờ đến 21 giờ tức giờ tuất. Canh hai bắt đầu từ 21 giờ đến 23 giờ tức giờ hợi. Không đường là không gian trong phòng.

Không đường dục nhị canh là tiếng trống báo canh hai vọng đến gian phòng. Ngày xưa người ta hay dùng tiếng trống để báo sang canh.

Chúng ta có thể hiểu, Vương Duy là một người thực tập Thiền và có thể ông đang thực tập Mười sáu phép quán niệm hơi thở. Vào lúc khoảng chín giờ tối, Vương Duy ngồi yên một mình trong thiền phòng và thở. Tiếng trống báo canh hai có thể được xem là tiếng chuông gia trì giúp ông đem tâm trở về với thân. Ngồi yên và thở. Đây là hơi thở giúp mình nhận diện, làm lắng dịu hình hài và cảm thọ. Ông ý thức hai bên tóc mai của mình đã bạc và nhận ra cái cảm thọ buồn man mát (bi song mấn).

Vũ trung sơn quả lạc
Đăng hạ thảo trùng minh

Trong mưa rơi rụng trái rừng
Dưới đèn nghe tiếng côn trùng nỉ non

Vũ trung là trong mưa. Sơn quả là trái rừng. Lạc là rơi xuống. Sơn quả lạc có nghĩa là trái rừng rụng xuống.

Đăng hạ là dưới đèn. Thảo trùng là côn trùng. Minh là kêu. Thảo trùng minh có nghĩa là côn trùng kêu, ở đây chúng ta dịch là côn trùng nỉ non.

Vuơng Duy ngồi yên và có mặt trong giây phút hiện tại. Ông ý thức được những gì đang xảy ra chung quanh mình. Bây giờ là mùa thu, bên ngoài mưa nhẹ ra rít nên nghe được tiếng trái rừng chín rơi rụng trong mưa. Trong thiền phòng, thiền giả ngồi yên dưới ánh đèn và lắng nghe tiếng côn trùng đang nỉ non. Chúng ta có thể hiểu Vương Duy đang ngồi thiền trong một gian nhà đơn sơ giữa rừng. Ông chọn một khung cảnh thiên nhiên, vắng vẻ và u mặc để ngồi thiền tối. Có phải lúc đó người ngồi trong thiền phòng, tiếng mưa, tiếng trái rừng rơi rụng xuống đất và tiếng côn trùng đã trở thành một? Cái biên giới giữa người ngồi thiền và không gian trong đó có người đang ngồi thiền không còn nữa.

Bạch phát chung nan biến
Hoàng kim bất khả thành

Tóc xanh rồi bạc lẽ thường
Thời vàng son ấy có còn gì đâu

Bạch phát là tóc bạc. Chung nan biến là không thể thay đổi. Hoàng kim có nghĩa là vàng bạc, cũng có thể hiểu là thời vàng son, hưng thịnh. Bất khả thành là không thể có được, không nắm bắt được.

Dục tri trừ lão bệnh
Duy hữu học vô sinh 

Bỗng nhiên ngộ thoát bệnh già
Chỉ khi chứng được cái nhìn vô sinh

Dục tri là muốn biết được. Trừ lão bệnh là thoát khỏi bệnh hoạn và cái già.

Duy hữu học vô sinh có nghĩa là chỉ có được khi có tuệ giác vô sinh.

Muốn thoát khỏi sự già nua, bệnh tật thì chỉ có một phương pháp là chứng được tuệ giác vô sinh. Vô sinh có nghĩa là vô sinh bất diệt, là cái thấy vượt thoát sinh và diệt, có và không, tới và đi, còn và mất.

Đây là sự chứng ngộ. Vương Duy là thi sĩ, họa sĩ và thiền giả. Thấy được sự thay đổi của chính bản thân mình và của sự vật chung quanh mình, ông nhận ra rằng các pháp đều không thật sự có, chúng không có tự tánh. Nó chỉ là những biểu hiện do duyên sinh, đủ duyên thì hợp, không đủ duyên thì tan.

Trong một bài thơ ngũ ngôn bát cú Vương Duy vẽ ra cho chúng ta bức tranh tuyệt đẹp của một thiền giả ngồi tọa thiền trong một gian nhà vào đêm tối. Trong thiền phòng vọng đến tiếng trống báo canh hai và đó cũng là tiếng chuông chánh niệm đưa tâm trở về với thân. Những hình ảnh rất thi ca hòa lẫn với những âm thanh của thiên nhiên làm tăng thêm tính chất thiền vị của bài thơ. Ngoài kia đang mưa, tiếng mưa lẫn với tiếng trái rừng rơi xuống đất. Trong gian nhà, người ngồi dưới ánh đèn và lắng nghe tiếng côn trùng nỉ non. Thật là một khung cảnh êm đềm và bình an của một buổi ngồi thiền. Phải thật sự có mặt mới có thể sống và và cảm nhận được cái giây phút mầu nhiệm này.

Thiền giả ngồi yên, thân tâm lắng dịu, ý thức rõ ràng tóc mình đã bạc. Tóc đã bạc thì không thể trở lại xanh như trước. Tiền tài, danh vọng, giàu sang cũng không giúp cho mình thoát được già yếu, bệnh tật. Mình cũng không nắm bắt được cái thời vàng son ấy (Hoàng kim bất khả thành). Ông ngộ ra rằng muốn vượt thoát già yếu, bệnh tật thì chỉ có con đường thực tập để có được tuệ giác vô sinh.

Vương Duy đã thực tập và đã thấy được nhờ thiền quán. Chúng ta cũng là những người thực tập, chúng ta đã tìm ra chưa? Không phải chỉ những người tuổi hạc đã cao mà tôi nghĩ những người trẻ cũng đã từng có mối ưu tư đó, vì cái lẽ vô thường là chung cho tất cả sự vật. Làm sao thoát khỏi sinh-lão-bệnh-tử? Các bạn có khi nào suy tư đến vấn đề này không?

Tôi chợt nhớ tới một bài thơ của thiền sư Nhất Hạnh, là một bài thơ nhưng viết theo thể văn xuôi, có tựa là Tái sinh. Bài thơ trình bày tuệ giác vô sinh sâu sắc nhưng mang màu sắc nhẹ nhàng của thi ca:

CGL

Tươi son bền sắt

Chân Đức Hạnh là một Tiếp Hiện cư sĩ ở Việt Nam. Lá thư anh viết gửi đến Thầy nói lên tấm lòng tha thiết mong cầu được tiếp nhận và thọ trì Năm Giới quý báu như thế nào. Với tấm lòng mong cầu mạnh mẽ đó, anh đã có thể vượt qua những khó khăn, trở ngại và anh đã hạnh phúc như thế nào khi cái mong ước cao đẹp của mình trở thành sự thật.

Thầy kính thương,

Lâu rồi con không thực tập viết thư cho người thương, nhưng sự tu tập của con cũng không vì đó mà thuyên giảm. Con vẫn „giữ cho bền sắt tươi son“ dù thỉnh thoảng có trải qua những „cơn ba đào„.

Hôm nay, nhân bắt đầu tuần lễ kính mừng Đức Bụt đản sinh, con muốn viết thư tới Thầy để trước hết vấn an sức khỏe của Thầy, sau đó con xin kể Thầy nghe một chuyện rất vui mà con đang thực tập ạ.

Con thực tập theo Thầy bắt đầu bằng việc đọc sách, những cuốn sách của Thầy đã tưới tẩm những hạt giống bồ đề trong con rất nhiều. Ngày xưa khi đưa Mẹ con đi chùa mỗi dịp năm mới hay ngày lễ, con thường đứng ngoài vì thấy đi chùa như mê tín, không phù hợp với giới trẻ như con.

Thế nhưng, ngay lần đầu tiên tham dự khóa tu tại Làng Mai Thái Lan mùa hè năm 2017, con đã có ý định quy y thọ 5 giới với Thầy. Năm đó Thầy đang tĩnh dưỡng tại Làng Mai Thái Lan và có cơ hội được thọ giới tại đây là một điều đặc biệt. Nhưng rồi có nhiều nghịch duyên khác mà rất tiếc con chưa thể thọ giới trong những ngày đó được, nhưng ước nguyện được thọ ba phép quay về nương tựa và năm giới quý báu với Thầy chưa bao giờ tắt trong con.

Tháng 11 năm 2018, ngay khi biết tin Thầy về tĩnh dưỡng tại chùa Tổ Từ Hiếu, con đã sắp xếp công việc để được vào thăm chùa Tổ, nếu có cơ hội thì được đảnh lễ Thầy. Con đi Huế vào đúng ngày 20/11/2018 – ngày Nhà giáo Việt Nam. Khi ngồi trên máy bay, con nghĩ là cần phải viết một lá thư tri ân Thầy – vị thầy tâm linh đầu tiên của con. Con hoàn thành bức thư tay ngay khi hạ cánh, con bắt xe về thẳng chùa Tổ với ước mong kính dâng lên Thầy ngày hôm đó. Con tới chùa khi trời đã tối, con đứng trước Thất Lắng Nghe của Thầy rất lâu và tình cờ gặp quý thầy thị giả nên gửi quý thầy bức thư nhờ kính dâng lên Thầy giúp con.

Con đã có những ngày rất thảnh thơi và hạnh phúc tại chùa Tổ năm đó. Ngày cuối cùng trước khi về Hà Nội, con viết thư tay chào Sư Cô Chân Không và nhờ quý sư cô thị giả gửi giúp. Thật bất ngờ khi ngay sau đó, Sư Cô Chân Không đã nhắn lại bảo con đợi để gặp. Rồi như một phép màu, nguyện ước bấy lâu của con đã thành hiện thực khi Sư Cô từ bi truyền thọ ba phép quay về nương tựa và năm giới quý báu cho con ngay tại chùa Tổ dưới sự chứng minh của Bụt, của Tổ và Thầy.

Sư Cô đặt cho con pháp danh là Tâm Đại Bi với mong muốn con sẽ tiếp nối con đường mà Thầy đã dày công xây dựng để đi về tương lai, đó cũng là tâm nguyện cả đời của con khi phát nguyện thọ năm giới quý báu với Thầy. Ngày 25/11/2018, ngày con chính thức trở thành con Bụt, con của Thầy là một ngày đáng nhớ. Con đã rất hạnh phúc và biết ơn Thầy, biết ơn Sư Cô và tăng thân đã từ bi trao truyền tuệ giác. Kể từ đó, con luôn tâm niệm đã có gốc rễ tâm linh rồi, con cần phải tu tập làm sao cho xứng đáng với gia đình tâm linh đó.

Mùa Đức Bụt đản sinh năm nay 2021 – Phật lịch 2565, con muốn làm một điều gì đó dâng lên cúng dường Bụt, cúng dường Thầy. Con cũng vừa chuyển chỗ ở và cũng muốn làm một việc mà con đã định làm từ lâu là khai báo làm mới thẻ căn cước công dân với việc ghi tôn giáo của mình là Phật giáo, đó sẽ là món phẩm vật con dâng lên cúng dường Bụt. Hầu hết người dân Việt Nam nếu không phải theo các tôn giáo khác thì đều ghi tôn giáo là “không” và trong ý niệm của tất cả mọi người, để thuận lợi nhất thì nên để là không. Nhưng con là một người con Bụt, con của Thầy, con sẽ thay đổi việc đó, dù là việc nhỏ, nhưng lại cũng có thể gây mất nhiều thời gian vì phải giải trình đầy đủ.

Con đi làm thẻ căn cước công dân với một niềm vui sướng, và chuẩn bị mọi giấy tờ cần thiết. Ngay khi chú công an điền thông tin, họ xem chứng minh thư nhân dân của con và ghi vào “tôn giáo: không”, con bảo lại: “nhờ anh ghi giúp là Phật giáo”. Chú công an hỏi: “sao CMND của anh đang để là không mà?”, con bảo lại “ngày trước không là đúng, còn giờ là Phật giáo mới đúng”. Chú công an nói lại “anh có giấy tờ gì chứng minh không?” – con trả lời: “tôi có điệp hộ giới”, rồi con mở ra cho các chú công an xem. Có lẽ là lần đầu tiên các chú công an nhìn thấy điệp hộ giới Làng Mai nên cả 6 – 7 chú cứ xem rồi bảo: “sao chưa nhìn thấy cái này bao giờ?”, “cái này không chứng minh được”, “thôi anh cứ để là không đi cho tiện” …nhưng con nhất định bảo “tôi là con Bụt, nên tôn giáo của tôi phải ghi là Phật giáo”.

Cuối cũng có một chú chắc là đội trưởng, nói: “thôi, có chữ pháp danh Tâm Đại Bi đây rồi, điền cho anh ấy tôn giáo là Phật giáo đi”. Vậy là xong, con đã thực hiện được ý nguyện dù có một vài nghịch duyên khác nữa. Ngay lúc đó con nghĩ tới mấy vần thơ của Thầy mà con thường thực tập:

Trước sau xin chớ ngại ngần

Những bàn tay ấy tình thâm vẫn tròn

Giữ cho bền sắt tươi son

Giữ cho tâm lặng giữa cơn ba đào

Con đã hoàn thành tâm nguyện này vào đúng ngày bắt đầu tuần lễ kính mừng Đức Bụt đản sinh, và con xin dâng vật phẩm này cúng dường lên Bụt, lên Tổ và lên Thầy. Vật phẩm của con chính là sự VÔ ÚY mà Bụt đã dạy, mà con đã học được qua những bài pháp thoại của Thầy.

Tâm đã quyết rồi hiềm gì bạo lực

Thân đi vào đời cưỡi trên ba đào

Con kính chúc Thầy luôn khỏe mạnh, bình an để làm nơi nương tựa cho tứ chúng Làng Mai.

Thành kính dâng lên Thầy,

Hà Nội, 19/5/2021

Chân Đức Hạnh

Giọt nước mắt ngày xưa nay đã thành mưa

Anh Jean Pierre – Chân Linh Từ là một giáo thọ Tiếp Hiện cư sĩ người Pháp sinh hoạt trong tăng thân Paris. Lá thư anh viết gửi Thầy và các bạn đồng tu là những lời tâm tình từ trái tim của một người, không phải là nguời Việt, nhưng đã tìm thấy hạnh phúc thật sự nhờ sự thực tập trong một cộng đồng tu tập người Việt. Nhờ sự thực tập mà anh đã nhận diện và chữa lành được những vết thưong của quá khứ. Xin mời các bạn đọc bức thư tâm tình đầy xúc cảm này.

 

Kính bạch Thầy,

Kính thưa quí thầy, quí sư cô,

Kính thưa đại chúng,

Khi đến Làng Mai lần đầu tiên vào tháng bảy năm 1983 tôi chỉ mới 26 tuổi. Hồi đó Làng Mai có tên là Làng Hồng. Người ra đón tôi ở Xóm Hạ ở Meyrac là cô Phượng, tức sư cô Chân Không của chúng ta bây giờ. Sau khi nghe tôi giới thiệu mình là ai, do đâu mà tôi biết được Làng để tới một cách bất ngờ như vậy thì cô Phượng kêu lên:“A thì ra là anh, anh là Jean Pierre! Anh Jean Pierre đã từng giúp cho những người Việt đến tị nạn ở Pháp phải không?“ Tôi rất ngạc nhiên không hiểu tại sao người ở đây lại biết tôi, một nơi mà trước đây tôi chưa hề đặt chân tới, hơn nữa lại là một nơi chỉ toàn là người gốc Việt.

Tôi đến Làng Hồng theo sự chỉ dẫn của một anh bạn người Việt Nam tên là Bá Thư. Anh Bá Thư đã tặng tôi cuốn sách“Phép lạ của sự tỉnh thức“ của Thầy do Lá Bối xuất bản. Cuốn sách đã đánh động tôi rất nhiều, thậm chí tôi đã chép tay ra toàn bộ cuốn sách để cho dễ thấm hơn. Khi đó tôi chưa biết là cuộc đời mình sẽ thay đổi tới mức nào.

Khi gần kết thúc mùa hè năm 1982, tôi định dành vài ngày phép còn lại của mình để trở về Làng. Trong lúc chờ đợi, tôi bắt đầu thực tập thiền với cuốn sách quý báu của mình mặc dù chưa hiểu gì nhiều. Tôi tập rửa bát, tập ngồi, tập đi. Tôi cũng nhận ra được rằng thời gian làm việc luôn luôn là “thời gian của tôi“ mà không phải là thời gian “mất đi“ ví dụ như khi mình làm một việc  không thú vị gì mấy.

Tôi quen với Bá Thư ở Lyon, tại Hội Ái Hữu Sinh Viện Việt Nam qua sự giới thiệu của một anh bạn khác là Hoàng. Tôi gặp Hoàng lần đầu tiên ở Metz trong khi thực hiện nghĩa vụ quân sự. Hoàng cũng đi nghĩa vụ quân sự vì anh ấy có quốc tịch Pháp. Tôi còn nhớ rất rõ cuộc gặp gỡ lạ lùng giữa tôi và Hoàng.

Chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên vào năm 1977 khi tôi đã đến trại được 6 tháng. Đầu năm 1977 có một toán những người mới đến. Hoàng ở trong nhóm những người được “kêu gọi đầu quân“ trong một năm. Khi gặp nhau Hoàng đi tới chào tôi một cách rất tự nhiên, và tôi cũng cảm thấy gần gũi như quen biết nhau từ lâu, giống như hai anh em sinh đôi gặp lại nhau sau một thời gian dài xa cách. Tôi rất vui có được một người bạn như Hoàng. Chúng tôi thấu hiểu nhau và trở thành một đôi bạn thân không thể tách rời nhau. Sau này tôi mới biết thêm rằng chúng tôi cũng có chung một niềm đau nỗi khổ thật sâu. Sau khi thời hạn nghĩa vụ quân sự chấm dứt tôi xuất ngũ để trở về đời sống dân sự.

Hơn sáu tháng, một hôm có tiếng điện thoại reo, mẹ tôi nhấc lên nghe và gọi tôi:“Jean Pierre, có anh bạn Việt nam của con nè!“ Đó là Hoàng. Trước tiên anh ta cất giọng trách cứ:“Bộ quên người anh già này rồi hả?“ Rồi anh ta mời tôi về chơi nhà bố mẹ anh ở Vaulx-en-Velin gần Lyon.

Gia đình Hoàng tiếp đón tôi như con cái trong nhà. Tôi đã ở đó trọn một tuần lễ và đã học cách ăn cơm bằng đũa. Tôi còn nhớ ba của Hoàng đã món gà nấu ớt cho bữa cơm chào đón tôi ngày đầu tiên. Ông đã phải đóng hết tất cả các cửa để ớt không bay ra trong không khí. Nhưngchúng tôi cũng bị ho sặc sụa vì mùi ớt.

Sau đó tôi thường xuyên trở lại Lyon để thăm Hoàng. Hoàng đã giới thiệu tôi vào Hội Ái Hữu Sinh Viên Việt Nam họp mặt mỗi tuần ở l’INSA Lyon. Tôi đã được tiếp đón như một người bạn. Khi đó tôi hoàn toàn không hiểu gì về người Việt nhưng tôi cảm thấy thoải mái khi ở chung với họ. Tôi chỉ cần có mặt ở đó, trong bầu không khí không hề quen thuộc đối với tôi, nhưng lạ lùng là tôi cảm thấy dễ chịu và thoải mái. Từ từ tôi bắt đầu tham gia vào những sinh hoạt cộng đồng của hội. Hoàng không bao giờ quên mời tôi tham dự những buổi lễ hay những buổi biểu diễn văn hóa được tổ chức để giúp cho thuyền nhân tị nạn. Tôi cảm thấy hạnh phúc vì mình là một người có ích. Tôi lấy xe chở hành lý, chở thực phẩm hay chở người đến những trung tâm tiếp cư cho người tị nạn hoặc đưa họ tới những nơi mà họ cần phải tới. Tôi rất cảm động khi thấy có những người đã mất hết tất cả, trong tình trạng sức khỏe bấp bênh và vừa trải qua những điều kiện khắc nghiệt trên thuyền trong nhiều tuần mà vẫn còn tràn đầy niềm vui và sức sống. Có một anh bạn tên Hoa đã lênh đênh trên thuyền trong suốt 18 tuần lễ. trong suốt thời gian trên thuyền hầu như anh chỉ đứng vì thuyền có quá đông người tị nạn.

Bá Thư đề nghị tôi đến thăm Làng Hồng, anh cho biết có một thiền sư người Việt Nam đang sống ở đó. Tôi chấp nhận ngay đề nghị của anh, nghĩ rằng tới đó tôi sẽ gặp một “thiền sư già“, giống như trong những phim kiếm hiệp Trung Hoa mà chúng tôi đã từng xem với nhau. Ông thiền sư với bộ râu trắng dài và dĩ nhiên là ở cái cái tuổi đáng kính. Nhưng khi đến Làng tôi đã không gặp được một “thiền sư già“ với bộ râu bạc.

Tôi đã gặp Thầy ngay ngày thứ nhất của tôi ở Làng. Hơn chục người chúng tôi ngồi trong một cái vựa cũ, bây giờ là nhà ăn của Xóm Hạ, trên những chiếc băng dài xấp theo hình vòng cung trước cái bảng dùng để giảng bài. Trước bảng có một người dùng hình vẽ để giảng giải. Ông ấy mặc một bộ đồ giản dị, gồm áo vạt hò và quần dài. Tuy không hiểu gì hết những gì ông nói nhưng tôi cảm thấy rất thú vị. Tôi nghĩ chắc ông ấy là thiền sư của Làng. Nhưng bỗng nhiên có một người, cũng ăn mặc giản dị, đứng lên từ chiếc băng khác, ngắt lời ngưòi đang nói một cách thẳng thắn. Ông đến trước bảng và điều chỉnh lại những mô hình mà người trước đã vẽ. Thật rõ ràng, đây chính là thiền sư mà Bá Thư đã nói với tôi. Đó là lần đầu tiên tôi gặp Thầy, một người tươi mát, dịu dàng, đồng thời cũng thẳng thắn, với một uy lực thật tự nhiên và đầy từ bi.

Ngày thứ hai của tôi ở Làng cũng đầy ấn tượng. Khi đó các em nhỏ tụ họp lại dưới hai cây sồi lớn ở Xóm Hạ để tập hát những bái hát bằng tiếng Việt. Những chiếc băng dài được xếp theo vòng tròn. Tôi giữ khoảng cách và có hơi nhút nhát. Không có người nào của Hội Ái Hữu Sinh Viên có mặt, và tôi không quen ai ở đó cả. Trong khi các em đang hát thì bỗng nhiên tôi cảm thấy có hai bàn tay đặt lên vai tôi và đẩy nhẹ tôi về phía các em. Tôi nghe một giọng nói mời tôi tới cùng hát với các em:“Jean Pierre, anh ngồi xuống với các em và tập hát bằng tiếng Việt đi!“ Đó chính là Thầy, Thầy đã đến sau lưng tôi hồi nào mà tôi không hay.

Một hôm khác Thầy gọi tôi tới ngồi gần bên Thầy, đối diện với những cây mận. Thầy giới thiệu Làng với tôi, nói cho tôi biết cách sống ở Làng như thế nào, kể cho tôi nghe những ý tưởng của Thầy về tương lai của Làng, làm sao để vừa trồng cây mận vừa bảo vệ được sự sống…Và sau cùng Thầy hỏi tôi:“Anh nghĩ gì về Làng của chúng tôi?“. Lạ thay, một người nhút nhát như tôi lại trả lời thầy một cách rất tự nhiên:“Tôi nghĩ sẽ có rất nhiều người đến đây vì người ta rất cần một nơi như thế này!“ Tôi ngạc nhiên khi mình nói được như thế, có thể vì tôi cảm thấy thoải mái an tâm ở bên Thầy.

Tôi theo người Việt tới Làng, nhưng cuối cùng tôi cũng có nhu cầu được thực tập chánh niệm. Điều này với tôi rất quan trọng. Sự thực tập thấm vào tôi từ từ, tôi thích đi dạo trên những cánh đồng, đi trong rừng hay đi qua những vườn nho.

Một hôm thấy những giáo lý quá nặng nề đối với tôi, Thầy nói:“Jean Pierre, anh không cần phải biết kinh điển hay học thuộc những từ ngữ Phật giáo khó khăn. Anh chỉ cần sống trong Làng với chúng tôi là được rồi.“ Những lời nói đó làm cho tôi rất xúc động.

Tôi cũng xin mượn lá thư này để trả lời một câu hỏi mà tôi hay thường nghe là:“Tại sao lúc nào anh Jean Pierre cũng có mặt trong cái đám người Việt vậy?“ Lúc đầu thì tôi cười nói:“Tại sao không?“ Tôi tiếp xúc lần đầu với người Việt Nam thời còn chiến tranh trước năm 1975 qua những tin tức trên truyền hình. Lúc đó tôi còn là một thiếu niên, trong giờ tin tức buổi chiều tôi thấy gương mặt của một phụ nữ việt nam, gương mặt hằn sâu đau khổ vì các con mình đã chết trong bom đạn và một bé gái trần truồng, thân hình cháy xém, chạy trên con đường đất giữa đồng ruộng. Trái tim tôi vỡ vụn và nước mắt tôi trào ra. Tôi hiểu ra rằng, dù thời thơ ấu của tôi có nhiều khó khăn, nhưng không chỉ riêng mình tôi có khổ đau mà bất kỳ ai trên đời này đều có thể có niềm đau nỗi khổ. Tôi cảm thấy gần gũi với những người mà tôi chưa hề quen biết.

Sau này, nhờ Hoàng tôi biết được trách nhiệm của đất nước tôi thế nào trong việc tạo ra những bi kịch đó và tôi cảm thấy chính mình cũng có trách nhiệm một phần nào. Sâu tận trong đáy lòng tôi nghĩ mình phải có mặt cho những người Việt, tại vì nếu tôi bị mất một đứa con hay bị tách ra khỏi gia đình thì tôi cũng sẽ đau khổ y như những người đó. Trong tâm tôi nghĩ mình phải làm gì đó để bù đắp lại lỗi lầm do đất nước mình gây ra.

1983 – Thầy và Làng đi vào cuộc đời tôi

Thời gian đầu tiếp xúc với Thầy và Làng (trong khoảng 12 năm) không thay đổi được tận gốc lối sống của tôi. Tôi vẫn tiếp tục sống một cách đơn độc, khép kín và trốn tránh đối diện với chính mình. Ở đây tôi muốn nói tới sự đối diện với những nỗi khổ niềm đau trong tôi. Tôi sống với khổ đau trong lòng và lẩn tránh những người khác càng nhiều càng tốt.

Hồi đó cộng đồng tu học, chỉ gồm có những người bạn Việt, đã chăm sóc tôi. Mỗi cuối tuần chúng tôi tổ chúc một ngày quán niệm. Dù rất bị đánh động bởi cuốn sách “Phép lạ của sự tỉnh thức“ tôi vẫn không thoát ra khỏi sự cô đơn, tôi chỉ đến Làng vì những người bạn rủ tôi đi để cùng sinh hoạt hay thực tập chung với nhau. Cuối cùng thì thiền tập chỉ là một yếu tố nữa để gắn liền tôi với cộng đồng người Việt (có thể đó chỉ là một yếu tố phụ thôi). Điều đó không quan trọng đối với tôi. Điều quan trọng là tôi có được những giờ phút vui vẻ, cởi mở, cùng hát, cùng đùa chơi hay cùng đi nhặt hạt dẻ trong rừng Fontainebleau, cùng rong chơi…sống không lo nghĩ! Những giây phút  đó giúp tôi quên đi nỗi lo sợ mà tôi không chia sẻ được với ai, kể cả Thầy, người mà tôi rất kính mến, người mà tôi biết là sẽ lắng nghe tôi. Tôi không muốn mình tỏ ra đáng thương. Hơn nữa tôi nhút nhát, tôi nghĩ Thầy là một người “lớn“ còn tôi chỉ là một người“nhỏ bé“, tôi không thể làm phiền Thầy vì những vấn đề riêng tư của mình.

Cùng với Thầy và cộng đồng người Việt, tôi sống những giây phút hạnh phúc trong những buổi chia sẻ, những buổi thực tập chánh niệm hoặc những buổi sinh hoạt gia đình quanh cái bàn đầy thức ăn chay ngon lành hay quanh một bình trà nóng. Từ từ một gia đình được dựng lên chung quanh tôi. Gia đình đó nhận nuôi tôi như một người con, điều này rất mới lạ với tôi vì tôi bị tách ra khỏi gia đình huyết thống lúc 6 tuổi và đưọc nhận nuôi bởi một gia đình xa lạ. Tôi biết được thế nào là bạo động, sự sợ hãi và vất vả của công việc trong một nông trại, chưa kể tới nềm đau của sự chia cắt.

Một sự thay đổi lớn đã ảnh hưởng tới cuộc đời tôi: tôi gia nhập vào một gia đình tâm linh, nơi đã nuôi dưỡng và che chở tôi bằng tình bạn và lòng ưu ái. Và đồng thời tôi cũng được nhận vào một gia đình mới, gia đình Việt Nam. Tôi bị rúng động, tôi không biết phải làm gì và hành xử như thế nào. Tôi nói đùa rất nhiều và cười vui một cách dễ dàng để che dấu cảm xúc và nước mắt của mình. Trái tim đầy những vết sẹo của tôi không cho phép tôi nói đến điều đó. Nhưng chắc chắn điều quan trọng nhất là tôi giữ liên lạc với hai gia đình mới đó, tôi biết như vậy.

Sự thực tập chánh niệm đi tôi vào  thật nhẹ nhàng

Về phương diện tu tập, mặc dù đã trải qua vài năm, nhưng khoảng cách giữa đời sống cô độc và khoảng thời gian ở chung với cộng đồng của tôi tại Fontvannes (Phương Vân Am) hay Thiền Đường Hoa Quỳnh vẫn còn rất lớn. Cả sau khi thọ 14 giới Tiếp Hiện vào năm 1986 thì sự thực tập chánh niệm và quán chiếu nhìn sâu mới từ từ đi vào đời sống hàng ngày của tôi, giúp cho tôi có được một vài chuyển hóa mà tôi cũng không nhận ra được. Nhưng khi có vấn đề xảy ra như lúc mẹ tôi mất thì sự chuyện hóa đó mới biểu hiện ra. Tôi trông nom mấy đứa cháu trai và cháu gái giúp cho chị tôi vì chị hầu như hoàn toàn mất hết lý trí. Tôi đã hướng dẫn một buổi thiền hành, tôi làm một cách thật tự nhiên, không có cố gắng gì cả. Buổi thiền hành điễn ra rất tốt đẹp. Trong lúc dừng lại nghỉ ngơi, tôi có chia sẻ là mẹ của chúng tôi không bao giờ thật sự mất đi đâu hết. Nếu nhớ mẹ thì chúng tôi có thể gặp lại mẹ một cách dễ dàng khi nhìn sâu vào bàn tay của mình, khi đi thật bình an, lắng nghe thiên nhiên, cây cỏ, chim chóc hay giản dị là khi mình có mặt thật sự cho mình trong giây phút đó. Tôi đã chia sẻ như vậy và hướng dẫn thiền hành lần đầu tiên vào tháng bảy năm 1990.

Và nhiều lần tôi được giữ chuông trong những buổi thiền tập, trong những buổi lễ tụng 14 giới Tiếp Hiện, lúc tụng Bát Nhã tâm kinh hay lúc hướng dẫn ngồi thiền cho các bạn thiền sinh. Tất cả đều bằng tiếng Việt. Người ta có lòng tin ở tôi hơn cả chính tôi.

Cũng có khi những người không hề thực tập thiền Phật giáo nhận xét về tôi như thế này:“Jean Pierre, cái nhìn của anh đã khác hơn trước, nó dịu dàng hơn!“, hoặc lúc tôi làm việc ở nông trại trong mùa hè:“Anh đã thay đổi, anh làm việc chậm hơn, chăm chú hơn mà không bị mệt!“(tôi nhớ lúc đó mình đã làm việc trong chánh niệm). Có một lần tôi đi thiền tới tiệm bán bánh mì trong làng nơi tôi lớn lên thì ông bán bánh mì nói với tôi:“ Ông có vẻ thật bình an!“. Có những sự kiện nhỏ nhặt như vậy xảy ra trong suốt những tháng năm, có những bất ngờ bé bé thú vị, những bông hoa nở thật đẹp trên con đường đầy đá sỏi. Điều này không làm cho tôi hãnh diện một cách đặc biệt nhưng lại khuyến khích tôi thêm trong sự thực tập.

Tiếp xúc với em bé trong tôi

Lúc mới bắt đầu thực tập ở Xóm Hạ tôi không biết là trong tôi có niềm đau nỗi khổ. Hơn nữa tôi không đến Làng vì có khổ đau. Tôi chưa biết nhận diện sự mặt của khổ đau trong tôi. Tôi không biết trong tôi có một em bé đang đau khổ, em bé còn mang tất cả những vết thương sâu của quá khứ.

Trong sách ”Phép lạ của sự tỉnh thức” có một chương với tựa đề: Thiền làm sáng tỏ và trị liệu. Tôi đã để rất nhiều thì giờ để tìm hiểu tựa đề đó, vì qua nhiều năm thực tập khổ đau của tôi ngày càng hiện rõ nhưng nó vẫn không được chữa trị. Thầy của chúng tôi dạy rằng thiền tập không làm cho mình khổ, mà trái lại. Tôi còn nhớ có một lần đến Làng tôi ho nhiều lắm. Lồng ngực của tôi đau nhức từ hơn một tháng rồi. Qua hình chụp quang tuyến tôi biết là mình không có bệnh gì cả nhưng tôi rất đau. Cô Phượng đưa Thầy đến gặp tôi. Thầy nói với tôi chỉ giản dị như này:”Jean Pierre, thiền không làm mình đau, thở không làm mình đau. Anh đừng quá cứng ngắt trong sự thực tập…”Sáng hôm sau tôi hết ho và ngực tôi không còn đau nữa. Đây là nói về sự đau nhức của thân. Đó là thời gian mà tôi nghĩ rằng thực tập thiền cũng như là tập võ thuật vậy, nó giúp cho mình mạnh khỏe hơn…một sự thực tập sai lạc. Về phương diện tâm, thì khổ đau của tôi chỉ dường như có chút chuyển hóa thôi. Tôi biết là nếu với mức độ đó thì sự thực tập của mình không đúng chút nào, dù là tôi đã biết học nhận diện và ôm ấp em bé 5 tuổi của ngày xưa trong tôi.

Sau khi kết hôn thì tôi bắt đầu xa Làng trong một thời gian khá lâu, ngoài trừ tôi có đến thăm Thiền Đường Hoa Quỳnh vài lần và một lần tôi đưa gia đình nhỏ của mình về Xóm Mới. Vợ tôi không có cùng ý muốn thực tập hay thích về Làng như tôi. Nhưng tôi nghĩ rằng tôi đã không biết cách làm cho vợ mình có ý thích đó, bởi chính tôi, tôi cũng có nhiều do dự và không dứt khoát. Cách thức hành xử của một người chồng và một người cha không được dạy trong trường học và tôi đã phạm rất nhiều lỗi lầm. Từ từ tôi thấy biểu hiện ra sự giận dữ mà tôi đã được nuôi trong đó từ lúc nhỏ. Nó mạnh như núi lửa…sự giận dữ lớn dần lên trong tâm, tiếng la hét nổ ra, chúng tôi đi tới tình trạng rất khó khăn và chia tay.

Lúc đó Thầy thường ở bên cạnh bên tôi ban đêm, nhưng tôi không hiểu ra sự có mặt của Thầy. Tôi chỉ cảm thấy một sự thiếu vắng giống như lúc tôi rời xa mẹ tôi ngày xưa. Và một lần nữa tôi lại trốn chạy trước thực tế của một đời sống gia đình. Tôi không thấy được là tôi đã có quá đủ những gì cần thiết để sống hạnh phúc. Tôi bị kẹt vào nỗi khổ niềm đau của thời thơ ấu, của cảm giác mình là một nạn nhân…

Nhiều lần tôi đã trở về miền quê đó, nơi tôi đã lớn lên. Tôi cảm thấy mình thật bất hạnh, tôi muốn thấu hiểu và làm dịu đi niềm đau đó. Tôi đi bộ rất nhiều trong rừng, trên những cánh đồng, những bãi cỏ, những nơi mà tôi đã từng sống và làm việc. Tôi không nhận được ra là mình đang thực tập thiền hành. Điều này xảy ra rất rõ vào một buổi sáng sớm lúc 7 giờ khi tôi nghe tiếng chuông nhà thờ văng vẳng trong sương mù. Tự nhiên tôi dừng lại và trở về với hơi thở, với hình hài của mình. Thật là một sự tái sinh, sự thực tập của tôi không “mất” đi đâu hết. Tôi thấy được khổ đau tôi đã gây ra cho chính mình và cho gia đình. Tôi không thể nào làm như vậy được, đem bạo động trong mình đổ lên người khác. Tôi gánh phần lớn trách nhiệm trong việc tạo ra tình trạng đó cho gia đình mình, cho sự kiệt quệ và sự phóng thể của mình. Tôi đã đánh mất gia đình của tôi. Nhưng một mình cô đơn không có gia đình thì sẽ ra sao?

Chỉ cần đi, đi một cách bất bạo động thì sẽ có bình an! Đó là thiền! Chăm sóc hình hài của mình, hơi thở của mình. Chú ý, chỉ chú ý tới cái gì đang xảy ra…Ngày hôm đó tôi tìm lại được tăng thân, gia đình tâm linh của tôi dưới hình thái của cỏ cây, đất đá và những con thú nhỏ như chú sóc thường hay đến cười với tôi quanh cây sồi lớn.

Tôi tiếp tục thực tập thiền hành trên những con đường trong rừng. Tôi hái nấm dại về tự nấu ăn. Tôi lượm hạt dẻ và hạt hồ đào. Và chủ yếu là tôi được nuôi dưỡng bằng tất cả những gì đẹp đẽ và tươi mát. Tôi thấy rất rõ hạnh phúc mình đã có được ngay cả trong khổ đau của thời thơ ấu. Tôi thấy rất rõ khổ đau và yếu kém của nguời đã gây ra khổ đau cho tôi. Và tôi bắt đầu thương người đó thật sự.

Tôi thấy tôi là đứa bé 6 tuổi của thời đó. Trên một con đường rừng đầy ánh sáng đứa bé đã đến nắm tay tôi, nét mặt tươi cười và bước đi cùng với tôi. Thân tôi trở nên nhẹ bỗng, chân tôi như đặt trên mây, tôi cảm thấy gương mặt mình hoàn toàn thư giãn và êm dịu, một cảm giác thật bình an. Và tôi thấy cây cỏ, đất đá, thú vật, đất với trời trở thành một, trong một khoảng khắc không còn sự cách biệt nào cả. Chỉ còn lại một làn gió nhẹ giống như cái cảm giác được giải thoát hoàn toàn khỏi sự khổ đau. Khổ đau chuyển hóa hoàn toàn, nhường chỗ cho tình thương vô tận. Vài bước chân, vài hơi thở và tôi trở về nhà, lòng đầy bình an. Tâm tôi trống rỗng và tôi gởi sự bình an tới cho người đó.

Tôi không có lời nào để diễn tả được trạng thái đó, tôi chỉ có những bài thơ và đặc biệt là bài thơ tôi làm lúc nhận truyền đăng:

“Tôi đặt tay lên chiếc ngực trơ xương, người đó nằm trên giường hấp hối,

Tôi ôm người đó trong tay, rồi chúng tôi cùng khóc.

Tôi thương người đó, người đã in dấu sắt nung đỏ trên thân tâm tôi.

Tình thương bất tận thấm vào trái tim, tháo tung xiềng xích của vô minh.

Những hạt giống tốt đẹp đã nẩy mầm trên tro tàn tham dục.

Không có gì cần chuyển động, chỉ vài bước chân đã đủ giẫm vào cửa Tự Do.

«Sur ton lit d’agonisant, mes mains sur ta poitrine décharnée,

   Je t’ai pris dans mes bras, puis ensemble, nous avons pleuré

   Et je t’ai aimé, oh toi qui as marqué mon corps et mon esprit au fer rouge.

   L’amour infini pénètre les cœurs, brise les chaînes de l’ignorance,

   Sur les cendres du désir et de l’avidité, germent les graines de la bienveillance.

   Quelques pas ont alors suffi pour toucher à la Liberté, sans que rien ne bouge. 

Năm 1999 người mà tôi cùng sống chung lúc nhỏ qua đời. Tôi đã đến thăm lúc ông hấp hối. Ông chỉ còn da bọc xương và thở những hơi thở cuối cùng. Ông nhận ra tôi, không hận thù không giận dữ. Trong 3 ngày, mỗi ngày 2 lần tôi đến đặt tay lên ngực  ông và cùng thở với ông. Sau đó tôi đi thiền hành ngoài đồng và khi trở về tôi im lặng đến bên ông và nói: ”Tôi đã đi cho ông…”. Chiều chủ nhật tôi trở về Paris. Ông ra đi một cách bình an trong đêm ngày thứ ba. Ông đã chờ tôi.

Để kết thúc

Cộng động người Việt đã đón nhận tôi như một người con, tôi rất biết ơn.

Hoàng, bạn của tôi, bây giờ đã mất. Anh chưa bao giờ tới Làng. Tôi rất nhớ anh.

Bá Thư, chính anh đã đưa tôi tới Làng, pháp tự của anh là Chân Trí. Tôi gặp lại anh tháng 6 năm 2016, sau hơn 20 năm. Anh cùng với sư cô Định Nghiêm cho pháp thoại vào tháng 6 năm 2016. Bá Thư là người anh lớn của tôi trong đạo.

Tôi còn nhớ vài người bạn như Minh, Hải, Hoa, Vinh, Tuyết, Thái…và còn những bạn khác mà tôi quên tên.

Ba mẹ và anh chị em của Hoàng.

Tôi tâm niệm: ”Chúng ta không thể xây dựng hòa bình bằng phương tiện chiến tranh!”.

Và để có một đời sống gia đình êm ấm tôi thực tập Bốn câu thần chú.

Với tất cả lòng biết ơn

Jean Pierre – Chân Linh Từ (Compassion Sacrée Authentique)