Thiền sư Ryōkan
Daigu Ryōkan (1758–1831) là một thiền sư người Nhật sống ẩn dật giữa núi rừng, được nhớ đến không phải vì lời giảng dạy, mà chính nhờ đời sống vô cầu, thơ ngây và đầy từ bi của thầy. Thầy là nhà thơ, nhà viết thư pháp nổi tiếng với lối sống mà người cùng thời cho là“ngốc“,“ điên điên“ và“lập dị“.
Thầy là con trai lớn nhất của một gia đình doanh nhân giàu có và quyền lực và thầy có thể thừa kế gia sản của dòng họ. Nhưng Thầy rời gia đình đi xuất gia lúc 16 tuổi và theo học Thiền của phái Tào Động. Ngay từ thời còn trẻ, thiền sư Ryōkan đã chọn lối sống khất sĩ. Thầy từ chối làm trụ trì, từ chối đệ tử, từ chối quyền lực để sống như một đứa trẻ trong thế gian: không mục tiêu, không danh phận, không biên giới giữa hành đạo và sống.
Thầy từng nói:
„Khi đói thì ăn,
khi mệt thì ngủ.
Không lo chuyện cứu độ chúng sinh,
vì đã không còn thấy ai là chúng sinh cần cứu.“
Ryōkan viết hàng ngàn bài thơ – đôi khi là tụng kệ, đôi khi là để diễn tả các trò chơi với trẻ thơ:
„Không còn gì để làm
Chơi đùa với bọn trẻ,
Đập bóng tre lên mái chùa…“
Thầy thường quét lá khô để nhóm bếp:
„Gió mang đến cho tôi
đủ lá rụng
để nhóm một bếp lửa.“
Thầy ngưỡng mộ thơ của Hàn Sơn (một nhà thơ thời Đường, sống ẩn dật trên núi). Ryōkan làm thơ bằng chữ Hán lẫn chữ Nhật, không quan tâm tới niêm luật:
“Tôi viết theo điều gì khởi lên trong lòng. Ai biết kỹ thuật, cứ sửa lại.”
Đến cuối đời, thầy có một mối giao tình tri kỷ sâu sắc với sư côTeishin, trẻ hơn thầy đến 40 tuổi. Những bài thơ trao nhau như những chiếc lá cuối cùng mùa thu. Chính sư cô Teishin là người gom góp lại hơn 1800 bài thơ của thiền sư sau khi thầy tịch.
Trong trái tim bao thế hệ, Ryōkan vẫn hiện diện như một ngọn gió nhẹ, như vệt mực không phai trên nền giấy tâm hồn.
Bài thơ dưới đây là một bài thơ không tựa, mở đầu cho tập thơ“Những giọt sương trên lá sen“ (Tautropfen auf einem Lotusblatt, trong cuốn sách“Alle Dinge sind im Herzen“ của Munish B. Schiekel, Herder Spektrum xuất bản tại Đức.

Ai bảo rằng thơ tôi là thơ?
Thơ tôi không phải là thơ.
Nếu bạn hiểu rằng
thơ tôi không phải là thơ –
thì khi ấy,
chúng ta mới có thể bắt đầu nói về thi ca.
Tiếc thay…
một ông thi sĩ lui về ẩn dật
và làm thơ
Ông chọn thể luật cổ điển Trung Hoa,
Bài thơ tao nhã,
lời thơ hoa mỹ .
Nhưng nếu ông không viết
từ tận sâu nơi trái tim mình,
Thì những lời hay ý đẹp đó
Có ý nghĩa gì không?
Khi còn trẻ, là một kẻ ham vui,
tôi lang thang nơi thành thị,
Khoác chiếc áo lông vũ mềm nhất,
Cưỡi con ngựa nâu đỏ oai phong.
Ban ngày rong ruổi qua phố xá,
Và tối đến say sưa
dưới hoa mơ bên sông.
Chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện quay về,
thường xuyên qua đêm nơi kỹ viện,
miệng nở một nụ cười mãn nguyện.
Tôi hồi tưởng lại –
về những ngày ở Entsū-ji,
với cuộc chiến cô đơn đi tìm con đường.
Khi vác củi, tôi nhớ cư sĩ Hō,
Khi giã hạt gạo, tôi nghĩ đến Lục Tổ.
Tôi luôn là người ngồi hàng đầu tiên,
tiếp nhận lời dạy của thầy,
Chưa từng bỏ sót một buổi thiền tọa nào.
Ba mươi năm trôi qua –
Kể từ khi tôi rời nơi non xanh biển biếc thân yêu đó.
Các bạn đồng học giờ ra sao?
Và làm sao tôi quên được
lòng từ bi của người thầy yêu dấu?
Lệ cứ tuôn rơi,
hòa vào dòng suối cuồn cuộn chảy xuống từ đỉnh núi.
Tôi trở về quê hương,
sau bao năm phiêu bạt:
Nằm bệnh trong quán trọ,
tôi lắng nghe tiếng mưa.
Một chiếc y, một bình bát –
là tất cả gia sản của tôi.
Thắp một nén hương,
tôi gắng ngồi thiền định.
Đêm đen, trước cửa sổ,
mưa phùn nhẹ rơi suốt đêm dài –
Bên trong, những ký ức ngậm ngùi
của thời gian dài tìm kiếm.