Archiv der Kategorie: Những lá thư tình

Không có cái chết, đừng sợ hãi!

Đây là bài viết của cô Anne Lühe, một Tiếp Hiện cư sĩ người Đức, thực tập tại Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu (EIAB). Anne chia sẻ với chúng ta trải nghiệm của chính bản thân cô. Sự thực tập đã giúp Anne đối diện với cái chết như thế nào và cô đã có thể đã sống hạnh phúc với bệnh nan y của mình.

Tôi leo lên Đồi Táo với Thầy. Hàng trăm người đi theo Thầy, rất chánh niệm, chậm rãi và yên lặng. Waldbröl là nơi mà tôi đã hội ngộ với Thầy tôi.

Năm năm trước, tôi đã nghĩ là cuộc đời mình không còn ý nghĩa gì nữa.  Tất cả đều sụp đổ. Khi đó tôi 42 tuổi và biết là mình bị ung thư vú. Tôi sống sót nhưng bị chứng suy nhược kinh niên. Tôi không thể làm việc trở lại. Tôi không có sức khỏe, không có việc làm. Gia đình tôi tan vỡ. Hai đứa con tôi rời nhà để đi học đại học. Chồng tôi quen với một người đàn bà khác và chia tay với tôi.

Tôi tuyệt vọng vô cùng. Việc tiếp tục sống trong ngôi nhà đó làm cho tôi rất mệt mỏi. Vào các buổi chiều tôi thường lấy xe đạp vào rừng. Rừng là tăng thân đầu tiên của tôi. Tôi cảm thấy được sự liên hệ giữa mình với cây cỏ và những sinh vật sống ở đó. Tôi cảm nhận được năng lượng trị liệu từ chúng.

Mùa hè năm 2008 là lúc tôi rơi vào cái hố sâu nhất. Một ngày nọ, trong khi đang lái xe, tôi nghe về Viện Phật Học Ứng Dụng Âu Châu (EIAB) tại Waldbröl qua radio. Đó là một trung tâm tu học do một thiền sư Phật giáo người Việt Nam, thiền sư Thích Nhất Hạnh, thành lập. Tôi không có ý niệm gì về đạo Bụt hay văn hóa Việt Nam. Tôi sợ mình sẽ phạm sai lầm. Tôi hoang mang, không chắc điều gì sẽ xảy ra cho mình ở đó.

Nhưng nỗi lo sợ đó tan biến rất nhanh. Tăng thân Waldbröl đã mở rộng cửa nhà và trái tim để đón nhận tôi. Tôi đã tìm được cho mình một quê hương, một con đường và sư thực tập tâm linh.

Vì không còn phải gánh trách nhiệm gì với gia đình hay công việc nên hai năm tiếp theo đó tôi coi EIAB chính là nhà của mình. Tôi sống với tăng thân xuất sĩ với tư cách một cư sĩ thường trú. Tôi cũng làm việc có ích cho trung tâm. Ban đêm tôi dạy tiếng Đức cho các thầy, các sư cô trẻ. Ban ngày tôi làm việc trong văn phòng, giúp phiên dịch trang mạng của EIAB và những tờ chương trình từ tiếng Anh sang tiếng Đức.

Trong những tháng đầu tiên ở EIAB tôi đặt trọng tâm của sự thực tập vào câu: Tôi ý thức rằng, hạnh phúc chân thực đến từ tự tâm chứ không phải do những điều kiện bên ngoài và tôi có thể sống hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại bằng cách nhận ra rằng tôi đã có quá đủ những điều kiện hạnh phúc. Phép thực tập chánh niệm thứ 3 này là sự thực tập quan trọng nhất đối với tôi. Tôi có thể áp dụng nhiều phương pháp như sự thực tập: dừng lại thở khi nghe tiếng chuông được thỉnh lên mỗi 15 phút, hát những bài thiền ca trước khi đi thiền hành, đọc và quán chiếu những bài kệ của Thầy trên những bức thư pháp hay những tấm thiệp treo khắp nơi. Sự buồn khổ to lớn mà tôi đã từng kẹt vào dần dần được chuyển hóa nhờ sự có mặt của các thầy và các sư cô. Họ đã tặng cho tôi những nụ cười hay nắm lấy tay tôi khi tôi khóc. Chúng tôi đã cùng trải nghiệm những giây phút hạnh phúc trong khi im lặng, trong khi chơi xe trượt tuyết trên Đồi Táo, trong khi đi dạo hay chơi bóng với nhau.

Sau khi tôi sống với Tăng Thân được 9 tháng thì sư cô Chân Đức mở một khóa tu về Tình thương đích thực theo giáo lý của đạo Bụt. Trong dịp đó tôi đã nhận Năm Giới. Từ đây, tôi cảm thấy đã sẵn sàng để tiếp tục đi trên con đường thực tập. Sư cô Chân Đức đặt cho tôi pháp danh là “Wahre Präzenz des Herzens”. Pháp danh này giúp cho tôi có được cái nhìn thoáng hơn trong sự thực tập, trong ước muốn thực hành ước nguyện của mình và hiểu một cách đúng đắn hơn câu nói của các thầy, các sư cô: Cô Anne, cô không cần phải làm gì cả. Sự có mặt của cô cũng đã yểm trợ cho Tăng Thân rồi.

Thực tập trong một Tăng Thân có công năng trị liệu, cái thấy đó và sự biết ơn đưa tôi tới một chí nguyện sâu xa hơn. Tôi được tập sự trong dòng tu Tiếp Hiện dưới sự chỉ dẫn của y chỉ sư của tôi là cô Annabelle Zinser trong 2 năm. Trong thời gian này tôi học được nhiều kỹ năng quan trọng nhờ sự gợi ý của cô, ví dụ như cô nói: Đừng suy nghĩ nhiều mà hãy chỉ thử nhìn một cách đơn thuần,“là nó đó”, hay là em tự hỏi mình: Tôi đã sẵn sàng cho hơi thở vào này, cho hơi thở ra này, cho cảm thọ này, cho tâm hành này chưa?

Sự thực tập giúp rất nhiều cho tôi. Khi truyền giới sư cô Chân Đức đặt cho tôi pháp tự là “True Inclusiveness of the Ocean”. Tôi rất vui được tu tập theo pháp tự này. Tôi thích đại dương và tôi thích ví dụ này: Nếu bỏ một nắm muối vào ly nước thì nước trong ly không uống được nữa. Nhưng nếu bỏ một nám muối vào đại đương thì nước của đại dưong vẫn không hề hấn gì.

Vào tháng 10 năm 2017, khi bị chẩn đoán ung thư tuyến tụy với di căn vào gan thì tôi chấp nhận thông tin đó mà không có phản kháng nào. Trong tâm, tôi thấy mình rộng lớn như đại dương. Tôi bình tĩnh, tôi thấy có không gian trong lòng, không sợ hãi, không tuyệt vọng và bất an. Tôi nghĩ “là nó đó”, và không có gì ngoài việc thở. Giờ đây tôi có thể trải nghiệm những gì được học với chính bản thân mình: Nếu ta có thể chấp nhận bệnh tật trong cơ thể thì ta sẽ đau khổ ít hơn.

Đêm đó tôi đã thức rất lâu. Tôi nhớ lại 13 năm trước tôi đã đón nhận tin mình bị ung thư như thế nào, đã đối diện với cái chết như thế nào, và đã cảm thấy cô đơn như thế nào. Lúc đó tôi nghĩ mình sẽ chết cô độc một mình, con đường chuyển tiếp đó tôi sẽ phải đi qua một mình. Ý nghĩ đó làm tôi đau buồn và sợ hãi. Cái cảm thọ “mặt đất dưới chân mình bị lấy đi” cũng rất mạnh. Sự an toàn, sự tin tưởng và sự gắn bó vào đời sống đều biến mất trong thân, trong cảm thọ và trong tư tưởng của tôi.

Nhưng lần này mọi việc khác hẳn. Tôi thức, nằm đó và cảm thấy được nối kết, bảo bọc. Tôi đang nằm trong bóng tối, cảm nhận được nền đất dưới lưng mình và sự liên kết với tất cả chúng sinh, với Đất Mẹ, với tất cả những người thương và đặc biệt là với Tăng Thân của tôi. Bên cạnh mẹ tôi, con tôi, bạn đồng hành của tôi, tôi còn thấy những người thầy, những em gái và em trai trong đạo của tôi, những người tôi cảm thấy rất gắn bó vì cùng chung chí hướng, cùng chung một sự thực tập và sự trải nghiệm tương tức.

Điều đó có nghĩa là tôi biết mình sẽ được tiếp nối một cách rất cụ thể trong tương lai khi tôi không còn biểu hiện dưới hình thức này nữa. Mỗi phân tử của thân thể tôi sẽ tiếp tục tồn tại, mỗi tư tưởng, mỗi lời nói và hành động của tôi sẽ không mất đi mà tiếp tục sống trong những người đó. Tôi biết, nếu ý niệm về cái chết không có thì sự sợ hãi cũng không còn: Không có cái chết, đừng sợ hãi! Điều này không có nghĩa là tôi phủ nhận mình sẽ chết. Trái lại tôi còn ý thức “mình sẽ chết” trong từng giây từng phút. Và chính ý thức đó làm cho đời sống của tôi đẹp hơn. Tôi không viết tình trạng của mình thành một bi kịch. Tôi không tìm tòi trong mạng mà tin tưởng hoàn toàn vào bác sĩ của mình. Tôi ý thức được trọn vẹn rằng cái chết trong giờ phút này chỉ là một ý niệm. Tôi biết, là hình hài này ngày nào đó sẽ ngừng thở, trái tim này một ngày nào đó sẽ ngừng đập. Nhưng điều đó chưa xảy ra bây giờ, trong hiện tại tôi đang sống trong những điều kiện thật màu nhiệm.

Chúng ta không cần phải là Phật tử mới có được thái độ đó. Chúng ta không cần theo một tôn giáo (hiểu theo định nghĩa thông thường của chữ tôn giáo) mới nhận ra rằng, đời sống trên hành tinh này là một sự mầu nhiệm. Chúng ta cần thực tập, thực tập buông bỏ ý niệm Có-Không, an trú trong giây phút hiện tại, không đánh mất mình trong sự hối tiếc về quá khứ và sợ hãi, lo lắng cho tương lai. Đó là sự thực tập chánh niệm.

Sự thực tập mà tôi thích nhất là luôn ý thức được: Phút giây hiện tại, phút giây tuyệt vời! Tôi có may mắn là vẫn còn sống 3 năm sau khi chẩn đoán bị ung thư. Cho tới nay tôi vẫn không sụt cân và vẫn còn sức. Khi có sự đau đớn trong cơ thể (rất hiếm khi) thì tôi thực tập: Thở vào, tôi cảm thấy có cái đau trong thân, thở ra tôi mỉm cười với cái đau đó. Sự buồn nôn, đối với tôi còn khó chịu hơn sự đau đớn. Tôi thực tập: Thở vào, thở ra. Tôi để Bụt thở cho tôi. Tôi để Bụt nằm cho tôi, để Bụt đi cho tôi. Đôi khi, tôi tưởng tượng mình đang nằm trên một cái võng mà Bụt hay vũ trụ giăng lên cho tôi, và như vậy tôi cảm thấy thật thư giãn và nhẹ nhàng.

Ăn cơm trong chánh niệm cũng cho tôi nhiều niềm vui. Tôi ý thức được mình có rất nhiều thức ăn tốt lành và bổ dưỡng! Tôi không đau răng! Tôi không có vết thương và mụn trong miệng! Kể cả khi có vết thương trong miệng tôi cũng hạnh phúc vì ý thức rõ rằng, nếu ăn mà không bị đau đón trong miệng thì thoải mái biết nhường nào.  Ở EIAB chúng tôi cũng có thực tập chánh niệm trong khi đi vệ sinh. Thực vậy, tôi rất hạnh phúc mỗi khi đi tiêu hay đi tiểu mà không có vấn đề gì. Điều này chứng tỏ là những bộ phận trong cơ thể tôi còn hoạt động tốt và thân này là một tác phẩm mầu nhiệm như thế nào.

Có thể một ngày nào đó bạn sẽ đến thăm EIAB. Ở nơi đó, chùa tổ của tôi, bạn có thể có được những trải nghiệm được những cái giống như tôi. Cũng có thể bạn sẽ tìm được con đường hạnh phúc của mình ở một nơi khác. Nhưng dù bằng cách nào, ở nơi nào, vào lúc nào thì khi bạn đi ra một cánh đồng và ngước nhìn lên bầu trời, bạn cũng sẽ hội ngộ với tôi. Một đám mây không bao giờ chết.

Không có con đường đưa tới hạnh phúc

Hạnh phúc là con đường

Với tuệ giác này Anne đã bắt đầu một cuộc sống mới với bệnh ung thư.

Có được hạnh phúc trong những hoàn cảnh bất hạnh, đó là một điều này có thể xảy ra.

Anne Lühe ( No death no fear )

Tâm tình với các bạn trẻ: Chia sẻ về nghi thức tụng niệm và lễ lạy

Các bạn trẻ thương quý,

Tôi viết thư này như những lời tâm tình với các bạn trẻ, lẽ dĩ nhiên là các bạn trẻ người Việt. Tôi không muốn giảng pháp cũng có ý không thuyết phục. Tôi chỉ chia sẻ với các bạn những gì tôi đã thực tập, đang thực tập hàng ngày và sự thực tập này đã mang lại cho tôi rất nhiều hạnh phúc.

Lúc còn trẻ, tôi thường được bà ngoại dẫn đi chùa vào những ngày Rằm tháng Giêng, Rằm tháng Bảy và Rằm tháng Mười. Bà tôi không phải là một Phật tử nhưng bà có lời nguyện, mỗi năm sẽ đi mười chùa trong những ngày Rằm tháng Giêng, tháng Bảy và tháng Mười. Bà ngoại tôi đi chùa chỉ để lạy Bụt, cầu xin Bụt ban sự bình an cho tất cả mọi người trong gia đình. Còn tôi, tôi thích đi theo bà để được ăn cơm chùa. Trong những ngày lễ lớn như vậy nhà chùa nấu ăn rất ngon, có nhiều món lạ và chùa mời tất cả mọi người, không phân biệt bất cứ ai, đến ăn cỗ mà khỏi phải trả tiền. Bà tôi tới chùa, thắp hương, lạy Bụt và bảo tôi quỳ xuống lạy Bụt như bà để đựợc phước. Lúc đó trong lòng tôi bỗng nổi lên sự phản kháng. Tôi cứ đứng lì ra đó và không chịu lạy xuống. Tôi cảm thấy lạy như thế thì có vẻ như là hạ mình và mất nhân phẩm.

Tôi quên nói với các bạn là từ nhỏ, lúc vừa bắt đầu đi học, tôi đã được gửi vào trường của một dòng tu Thiên chúa giáo, và học ở đấy 12 năm cho đến khi tốt nghiệp trung học. Trường học cũng đồng thời là tu viện của một dòng nữ tu, có nhà nguyện xây theo phong cách gothic Tây phương. Thành thật mà nói, tuy tôi không theo Thiên chúa giáo, nhưng hình ảnh của nhà thờ và những ma sơ còn quen thuộc với tôi hơn là hình ảnh của ngôi chùa với các thầy và các sư cô. Tôi học thuộc thánh kinh nhưng hoàn toàn không biết gì về kinh điển Phật giáo. Lúc đó là thời chiến tranh đang rất khốc liệt, cứ lâu lâu tôi lại nghe tiếng tụng niệm của các thầy Phật giáo làm lễ cầu siêu cho đám tang ở những nhà lân cận. Tiếng tụng kinh nghe buồn thê thảm. Tôi rất sợ nghe tiếng tụng niệm đó vì mỗi lần nghe tụng kinh là tôi nghĩ ngay tới người chết và đau khổ. Tôi kể với các bạn điều này để các bạn biết là tôi đã từng có thành kiến với tụng niệm và lễ lạy như thế nào.

Cho mãi tới sau này, khi đã lập gia đình và có con, đối diện với những bế tắc trong cuộc đời, chới với và sợ hãi, tôi mới có cơ duyên được gặp Thầy và những pháp môn thực tập. Tôi đưọc Thầy dạy cho giáo lý đạo Bụt, những pháp môn thực tập áp dụng được vào trong đời sống cho bớt khổ như thiền ngồi, thiền đi, thiền ăn cơm, thiền trà, v.v… và nhất là thiền lạy. Thầy giảng cách thức nghe pháp thoại mà không bị kẹt vào định kiến, nhất là Thầy giảng rất kỹ về ý nghĩa của nghi thức tụng niệm và lễ lạy. Hiểu được ý nghĩa sâu sắc của nghi thức tụng niệm và lễ lạy thì cái nút thắt trong lòng tôi được tháo gỡ. Tôi có thể lạy xuống một cách tự nhiên và tôi rất hạnh phúc. Hai mươi mấy năm nay tôi vẫn thực tập nghi thức tụng niệm và lễ lại mỗi ngày tại nhà. Tôi xin được chia sẻ với những người trẻ về pháp môn thực tập sâu sắc này.

Tụng kinh và niệm Bụt

Phần đông người trẻ thường không cảm thấy hạnh phúc lắm với những nghi thức tán tụng. Một phần vì mình không được hướng dẫn và giải thích rõ ràng về ý nghĩa của sự thực tập. Người trẻ quen nghe âm nhạc mới và vẫn còn lạ lẫm với âm nhạc cổ truyền dân tộc. Nếu giọng tụng kinh niệm Bụt theo âm điệu cổ truyền không mang nhiều định lực của sự bình an thì sẽ không đi được vào lòng của những người trẻ.

Pháp môn tụng kinh và niệm Bụt là một phép thực tập chánh niệm đem lại cho chúng ta rất nhiều lợi lạc. Pháp môn tụng niệm và lễ lạy cũng quan trọng không kém gì pháp môn thiền ngồi, thiền đi, v.v…

Kinh là lời dạy của Bụt, là sự trao truyền tuệ giác của Bụt cho những học trò. Ngày xưa khi Bụt nói Pháp, học trò lắng nghe Pháp rồi lặp đi lặp lời lời dạy của thầy mình để nhớ và thực tập theo. Ngày nay chúng ta may mắn có được kinh điển ghi chép trên giấy, thống nhất và dễ đọc tụng. Và Thầy của chúng ta, thiền sư Nhất Hạnh, đã bỏ rất nhiều công sức viết lại nghi thức tụng niệm bằng chữ quốc ngữ cho dễ hiểu, khi tụng lên thì nghe như nhưng bài thơ vừa nhẹ nhàng vừa thi vị, dễ đi vào lòng người. Ví dụ như trong bài kệ Tán Quan Âm có những câu mà khi tán tụng lên mình có cảm tưởng như đang chiêm ngưỡng một bức tranh tuyệt đẹp:

Trí tuệ bừng lên đóa biện tài

Đứng yên trên sóng sạch trần ai

Cam lộ chữa lành cơn khổ bệnh

Hào quang quét sạch buổi nguy tai

Liễu biếc phất bày muôn thế giới

Sen hồng nở hé vạn lâu đài

Cúi đầu ca ngợi dâng hương thỉnh

Xin nguyện từ bi ứng hiện ngay

Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm.

Nếu ngồi yên một cách thoải mái, thư giản toàn thân, ngưng hết mọi sự suy tư, thở và chú tâm vào từng chữ, từng câu tụng của bài tán này thì mình sẽ cảm nhận được năng lượng từ bi của Đức Quan Âm thấm vào lòng mình. Và các bạn hãy tưởng tượng, nếu tất cả mọi người tham dự buổi nghi lễ đều thực tập như vậy thì sẽ tạo ra một năng lượng chánh niệm tập thể rất hùng mạnh có thể nuôi dưỡng và trị liệu cho mọi người và cho cả môi trường chung quanh.

Mình niệm danh hiệu của Bụt và chư vị Bồ Tát để tưới tẩm hạt giống tốt lành trong mình vì mỗi vị Bồ Tát tượng trưng cho một đức tính. Ví dụ như Bồ Tát Manjushri (Văn Thù Sư Lợi) tượng trưng cho trí tuệ lớn, Bồ Tát Samantabhadra (Phổ Hiền) tượng trưng cho hạnh nguyện lớn, Bồ Tát Avalokiteshvara (Quan Thế Âm) tượng trưng cho tình thương lớn, v.v… Mình biết những đức tính đó có mặt trong mỗi người chúng ta và mình để cho lời niệm danh hiệu của Bụt và Bồ Tát thấm vào trong tâm, tưới tẩm những hạt giống tốt như Từ, Bi, Hỷ, Xả và nuôi cho nó lớn lên.

Tinh thần của đạo Bụt là phá chấp và cởi mở nên khi đạo Bụt  truyền đến nước nào thì sẽ hòa nhập vào văn hóa truyền thống của nước đó. Đạo Bụt đã khéo léo mượn âm nhạc dân tộc cổ truyền để đưa giáo lý và sự thực tập đi sâu vào lòng người dân. Vì thế kinh văn được tụng theo âm điệu của âm nhạc cổ truyền địa phương. Ở Việt Nam, giọng tụng niệm miền Bắc mang âm hưởng của những bài chầu văn. Đến miền Trung thì giọng tụng niệm mang âm hưởng của nhã nhạc cung đình. Vào tới miền Nam thì giọng tụng niệm lại có âm điệu ngọt ngào của dân ca Nam Bộ. Đây là tính cách văn hóa trong nghi thức tụng niệm.

Nếu chưa quen tụng niệm thì mình ngồi yên, thở, dừng lại mọi sự suy nghĩ và lắng nghe. Mình mở rộng lòng ra để cho lời kinh thấm từ từ vào trong tâm thức. Nếu đã biết tụng niệm thì mình tụng theo, hòa điệu cùng mọi người. Mình ngồi tụng kinh, lưng thẳng và đẹp, đem thân, khẩu và ý hợp nhất làm một. Như thế, mình chế tác ra được năng lượng chánh niệm hùng hậu để hiến tặng cho mọi người trong tăng thân. Nếu không chế tác được năng lượng chánh niệm trong khi tụng niệm thì chúng ta chỉ tụng một cách hình tức mà không có gì để hiến tặng cho các bạn đồng tu.

Tôi nhớ, lúc Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu vừa được thành lập, Thầy có sang Đức và cho một buổi pháp thoại công cộng trong một thính đường lớn ở Köln. Trước khi Thầy cho pháp thoại, các thầy các sư cô lên sân khấu niệm Bồ Tát Quan Thế Âm. Một ông người Đức ngồi cạnh nói xoay qua nói với tôi sau khi nghe quý thầy quý sư cô niệm Bồ tát xong:“Họ nói cái gì vậy? Tôi không hiểu gì cả nhưng tôi cảm thấy nó đánh động tôi rất nhiều. Tôi rất xúc động.“ Nếu mình tụng niệm có chánh niệm thì năng lượng chánh niệm đó sẽ tác động tích cực lên mọi người chung quanh.

Tụng kinh niệm Bụt là một pháp môn thực tập chánh niệm quan trọng và sâu sắc. Nếu thực tập tụng kinh niệm Bụt một cách tinh tấn thì mình cũng sẽ có được niềm vui, sự bình an và hạnh phúc như khi mình ngồi thiền hoặc đi thiền vậy.

Lễ lạy

Trong nghi thức tụng niệm luôn có phần lễ lạy. Chúng ta lạy Bụt, lạy chư vị Bồ tát và các vị tổ sư. Chúng ta không lạy để cầu xin một điều gì hay để có phước đức. Lạy Bụt là sự thiền tập rất sâu sắc có thể đưa tới tuệ giác và từ bi.

Trong trường hợp của tôi, tôi thường hay có cái cảm giác“xa lạ với mọi người chung quanh, lạc lõng giữa nơi mình đang ở“. Ví dụ như, đang có mặt vui vẻ trong một nhóm người như là nhóm bạn bè hay một số bạn đồng tu thì đột nhiên tôi cảm thấy như mình là một vật thể hoàn toàn không dính líu tới môi trường đó nữa. Tôi như một người xa lạ, bơ vơ đứng bên ngoài và tôi cảm thấy cô đơn, lạc lõng vô cùng. Có lẽ nguyên do là lúc còn nhỏ tôi không tìm thấy hạnh phúc khi sống trong gia đình hay ngoài xã hội chăng? Nghe Thầy giảng, tôi biết mình có thể chuyển hóa được cái cảm giác cô đơn, bơ vơ, lạc lõng bằng sự thực tập mà không cần phải cố moi tìm nguyên nhân nào đã khiến cho mình có cảm giác phóng thể đó. Nếu cắm được rễ vào nguồn cội của mình thì mình sẽ không còn cô đơn nữa.

Và tôi chọn pháp môn thiền lạy để thực tập kết nối lại với gốc rễ của mình. Mỗi sáng tôi thắp hương trước bàn thờ Bụt, đưa cây hương lên ngang trán tôi thở vào thở ra ba lần rồi đọc bài dâng hương. Tôi đặt tất cả sự chú tâm vào từng câu kệ. Cắm hương vào bát hương xong tôi bắt đầu thực tập thiền lạy. Tôi chắp tay đưa trước trán, rồi đưa tay xuống trước ngực, sau đó dang hai tay hạ xuống hai bên và từ từ lạy xuống. Những động tác đó có ý nghĩa là mình đem hết cả tâm ý và thân hợp lại thành một và có mặt thật sự trong khi lạy xuống. Đầu, hai tay và hai đầu gối chạm sát mặt đất, tôi từ từ ngửa lòng bàn tay ra. Điều này có nghĩa là tôi hoàn toàn phó thác mình cho đất, hai tay của tôi trống rỗng, tôi không giữ lại bất cứ một cái gì. Tôi thở vào thở ra ba lần và quán chiếu, tôi mang trong tôi tất cả tổ tiên huyết thống. Trong cái lạy thứ hai tôi quán chiếu, tất cả tổ tiên tâm linh đều đang có mặt trong tôi. Trong cái lạy thứ ba tôi quán chiếu, tôi và mọi sự vật chung quanh đều dính líu mật thiết với nhau, cái này không có thì cái kia cũng không có.

Thiền lạy, không những giúp mình kết nối lại với gốc rễ để mình trở nên vững chãi, có sự bình an, không còn cảm thấy cô đơn, lạc lõng mà hơn nữa thiền lạy còn giúp làm phát khởi lòng biết ơn đối với tất cả mọi loài và mọi sự vật. Và khi nảy sinh ra lòng biết ơn thì mình sẽ có hạnh phúc.

Trong phần nghi lễ, sau khi vị chủ lễ xướng danh hiệu của Bụt, của chư vị Bồ tát, của các tổ sư thì mình lạy xuống để tỏ lòng biết ơn và cũng để quán chiếu, thấy được Bụt không phải là pho tượng gỗ kia mà Bụt là năng lượng của hiểu và thương đang có mặt trong mỗi người chúng ta. Các vị Bồ tát và các vị tổ sư không phải là những danh hiệu suông mà là những đức tính đang có mặt trong mình. Lạy xuống như vậy sẽ cho mình rất nhiều bình an và hạnh phúc. Hơn nữa lạy cũng là một nét đẹp của văn hóa truyền thống. Người Việt Nam chúng ta thường lạy cha mẹ, ông bà, tổ tiên để tỏ lòng hiếu kính và biết ơn.

Vì vậy, nghi thức tụng niệm và lễ lạy không phải chỉ dành riêng cho các cụ lớn tuổi, nghĩ rằng mình không còn bao nhiêu ngày nữa nên tụng niệm lạy lục cầu xin một chỗ để quay về. Nghi thức tụng niệm và lễ lạy là một pháp môn thực tập chánh niệm sâu sắc có công năng giúp cho chúng ta có được tuệ giác, từ bi, bình an và hạnh phúc.

Hôm nào các bạn hãy thử tham dự một buổi nghi thức tụng niệm và lễ lạy với các bạn đồng tu. Các bạn chuẩn bị trước cho mình thái độ khi tham dự: thư giản toàn thân, dừng lại mọi ý tưởng, mọi suy nghĩ trong đầu như“Trời ơi, tụng kinh nghe chán quá, đã không hiểu gì hết mà lại còn mất thì giờ. Lạy cái tượng như vậy thì có ý nghĩa gì? Có vẻ mê tín dị đoan quá!“. Đã hiểu được ý nghĩa của nghi thức, mình nên thực hành cho có nội dung. Mình để cho thân tâm được hợp nhất, thân thật thoải mái, tâm thật rỗng rang thì mới tiếp xúc được với sự mầu nhiệm của pháp môn và mình mới thành công. Hơn nữa tụng niệm và lễ lạy cũng là văn hóa hay và đẹp của dân tộc chúng ta. Nếu thực tập cho tốt thì chúng ta cũng góp phần vào công trình giữ gìn di sản tâm linh của dân tộc để trao truyền lại cho các thế hệ tiếp theo.

Các bạn hãy thử thực tập đi, đừng bỏ qua rất uổng, và xin hãy kiên nhẫn.  Các bạn biết không, tôi phải thực tập pháp môn thiền đi đến ba năm mới thấy được hạnh phúc trong khi đi.

Nếu các bạn muốn tìm hiểu thêm về ý nghĩa của nghi thức tụng niệm và lễ lạy thì xin đọc sách“Công phu nở đóa sen ngàn cánh“ do Làng Mai biên soạn. Trong sách ý nghĩa của tất cả Kinh văn, nghi thức Tụng kinh, Niệm Bụt, Tán Bụt, Lạy Bụt đều được trình bày và giải thích cặn kẽ, rõ ràng.

Chúc các bạn thực tập thành công, khám phá ra được một pháp môn thực tập chánh niệm hiệu quả có thể đem lại cho mình niềm vui và hạnh phúc. Xin cảm ơn các bạn đã đọc bài chia sẻ này tư đầu đến cuối.

Thương quý,

CGL

Một thoáng …

Cây hoa trà

Buổi sáng thức dậy tôi nghĩ ngay tới những người thương. Những người thương có hạnh phúc không? Tôi thì hạnh phúc lắm! Vì vậy tôi muốn chia sẻ hạnh phúc của tôi với những người thương. Hạnh phúc đó, theo tôi thì tuy rất đơn sơ nhưng cũng làm cho mình vui được cả ngày.

Hôm nay hoa trà màu hồng cánh sen trước nhà đã nở những đóa thật tươi mát. Tôi không chịu nổi lôi máy ra chụp vài tấm hình gởi cho những người thương. Có những cái đã nở to trông rất là khoa trương, có những cái mới vừa he hé, có những cái còn búp nhưng đã tròn ủn ỉn và cũng có những cái còn là búp bé tí teo. Những cái búp đó đã nằm chờ đợi từ mùa Đông năm ngoái rồi đó. Nhưng chúng không nở một lần đâu, chúng nở từ từ cho chúng ta được hạnh phúc lâu chừng nào tốt chừng đó. Chúng dễ thương quá phải không những người thương? Tôi thấy biết ơn cây hoa trà quá chừng chừng!

Hương của ngày xưa

Sáng hôm nay đẹp quá phải không những người thương? Tôi vừa đến góc“trà thất“ định pha trà buổi sáng thì đã ngửi được một mùi hương thơm thật dịu dàng quen thuộc. Tự nhiên trong lòng tôi vui hẳn lên, tôi biết đó là hương của hoa bưởi, hoa cam. Đó là hương của tuổi thơ, hương của ngày xưa hay nói theo văn phong cải lương là“mùi của quê hương“ .

Tôi nhìn lên thì thấy chậu quất (tiếng người miền nam là cây tắc) gần tủ trà đã nở hai đóa hoa trắng nhỏ xíu. Hai cái hoa nhỏ xíu đó đã đủ làm thơm cả cái góc của“trà thất“ rồi.

Sáng nay tôi ngồi uống trà trong hương thơm của hoa quất. Tôi mời những người thương cùng ngồi uống trà với tôi và thưởng thức“ hương của ngày xưa“ đó nha.

Đi dạo

Buổi sáng trời nắng đẹp và ấm. Thấy ngồi trong nhà thì uổng quá tôi mặc áo, quàng khăn, đi dạo“Bunter Garten“. Tôi vừa đi vừa nhớ tới những người thương. Mình cũng thường đi với nhau trong công viên này đây. Tôi đã có chủ ý đem theo máy để chụp vài tấm ánh gởi tới những người thương.“Bunter garten“ chưa“bunt“ gì cả, phần lớn những cây to vẫn còn trơ trụi, nhưng dấu hiệu của mùa Xuân đã rõ ràng lắm rồi. 

Forsythia đã nở vàng rực, vài loại anh đào cũng đã nở rồi. À, có ai biết Forsythia tên tiếng Việt là gì không? Tôi tìm trong tự điển thì thấy đề là cây“liên kiều“, có thể dùng làm thuốc theo Đông y. Nhưng tôi lại gọi Forsythia là“phi mai“, tại vì Forsythia không phải là mai nhưng có thể thay thế cho mai trong những ngày Tết VN ở Tây phương.

Bi quan

Thường thường thì sáng nào thức dậy tôi cũng cảm thấy vui vẻ, lạc quan, cho dù tới tuổi này rồi thì thúc dậy là thấy đau nhức cả người. Vừa ngồi dậy, kéo cửa sổ lên là tôi đã thấy ánh bình mình xuất hiện ngay trước mặt rồi. 

Nhưng cũng có lúc tôi thấy không hứng thú gì cả. Tôi không muốn làm gì hết. Không phải tại vì tôi muốn làm biếng đâu mà đây là một cảm giác chán chường, có hơi bi quan một chút. Tôi không có bệnh cũng không có vấn đề gì mà mới sáng thức dậy đã thấy bi quan rồi! 

Tôi biết ai cũng đều đã từng một lần có tâm trạng giống như tôi. Thầy của tôi thường hay trích câu thơ của Xuân Diệu trong các bài giảng:“Tôi buồn không biết vì sao tôi buồn?“, còn tôi thì“Tôi chán không biết vì sao tôi chán!“

Nhưng tôi không muốn mang cái tâm trạng chán nản đó trong suốt cả ngày, tôi không muốn lãng phí thì giờ và năng lượng một cách ngu ngốc như thế. Vì thế tôi xin chia sẻ với những người thương phương pháp tôi sử dụng để vượt qua những lúc tệ hại đó. Phương pháp này tôi áp dụng bao giờ cũng thành công cả. 

Tôi mở cửa ra vườn ngay. Vừa ra tiếp xúc với không khí bên ngoài là tôi đã thấy lòng nhẹ ra rồi. Tôi làm việc ngoài trời, quét lá, nhổ cỏ, chăm sóc cây cảnh, hoa trái. Tiếng chim hót rất vui, hương hoa thoang thoảng, gió mát dịu cả lòng. Làm việc ngoài vuờn rất mệt, lúc nào tôi cũng bị cào xước cả tay. Nhưng làm vườn là một pháp môn rất thần diệu, chỉ một lát sau thì cảm giác chán nản biến đâu mất hồi nào không hay. Có lúc tôi không làm vườn mà đi dạo ra công viên. Thiên nhiên là một nhà tâm lý trị liệu thật tài ba. Khi trở vào nhà thì tôi là một người mới hoàn toàn, vui vẻ, yêu đời và tràn đầy năng lượng tích cực. 

Một ngày nào đó nếu bị rơi vào tâm trạng „tôi chán không biết vì sao tôi chán“ thì những người thương thử áp dụng phương pháp này rồi cho tôi biết kết quả nhé.

Tương tức

Chuyện gì mà lạ vậy? Cát trong sa mạc Sahara của Phi Châu lại có liên quan tới sự sống còn của rừng nhiệt đới Amazone ở Nam Mỹ? Hai nơi khác nhau hoàn toàn giống như là hai thái cực chống đối nhau ấy lại có một sự liên hệ rất là mật thiết với nhau sao?

Vào đầu tháng 5, khi ở sa mạc Sahara là mùa khô cằn nóng bức nhất thì ở rừng Amazone lại là mùa mưa dầm dai dẳng không dứt. Trong sa mạc Sahara, đoàn người du mục phải chiến đấu với cơn nóng như thiêu đốt, cát bị tung lên trên mỗi bước chân của đoàn lạc đà. Trong cát có phosphore và sắt tức là hai khoáng chất rất cần thiết cho sự sống. Những hạt cát nhỏ li ti ấy lại được gió đưa lên cao thành những đám mây khổng lồ. Chỉ trong vòng 6 ngày thì những đám mây cát đó đã được thổi tới vùng Amazone cách đó khoảng 8000 cây số. Mây cát và hơi nước trộn vào nhau và rớt xuống thành những cơn mưa dầm không dứt trong suốt tháng 5. Khoáng chất trong cát cũng theo nước mưa mà thấm vào đất của rừng Amazone. Đến cuối tháng 5 khi mùa mưa chấm dứt thì hạt mầm, cây cối nhận được khoáng chất nuôi dưỡng bắt đầu phát triển lên một cách thần tốc. 

Chúng ta ai cũng rất“ngại“ và không“ưa“ cho lắm vùng sa mạc. Nó khô khan, nóng bức, chỉ toàn là cát, nhìn đơn điệu và ảm đạm như một vùng không có sự sống vậy. Chúng ta có ý thích rừng nhiệt đới hơn vì ở đó có nhiều loài thảo mộc đủ các màu sắc, là chỗ ở của nhiều loài cầm thú và chim muông rất đẹp. Hơn nữa rừng nhiệt đới còn được gọi là „lá phổi xanh“ của chúng ta nữa. Nhưng nhìn cho kỹ thì nếu không có cái khô cằn nóng cháy của sa mạc Sahara thì sẽ không có khu rừng ẩm thấp xanh tươi khổng lồ Amazone. 

Vì vậy chúng ta hãy bớt“ngại“ và“ưa“ sa mạc hơn một chút đi nhé vì sa mạc cũng có thể được gọi là“khúc ruột vàng“ của chúng ta nữa đó! 

Ngắm mưa

Đã lâu rồi không tâm sự với những người thương, một phần vì bận quá và một phần vì lười biếng. Có lúc như vậy đó, mình muốn đóng cửa lại, ngồi một mình và ngắm mưa… tại sao lại ngắm mưa mà không ngắm nắng ban mai, ngắm hoa lá cây cỏ nhỉ? Ngắm mưa thú vị lắm đó người thương ơi. Sân nhà tôi trồng rất nhiều hoa hồng, nói cho văn vẻ một chút là hoa mai quế. Tôi thích uống trà mai quế. Tôi thường cho một ít cánh hoa vào trà xanh để uống buổi sáng. Mai quế đẹp và thơm lắm, nhưng khi rụng thì ôi thôi quét gãy cả lưng luôn. Mỗi ngày tôi đều ra quét cánh hồng có khi tới hai ba lần luôn. Tôi không ưa mai quê rụng tí nào! Ấy vậy mà nếu trời mưa thì cả hoa cả lá đều rụng nhiều hơn, lại nữa không quét được nên sân đầy cả lá, hoa, cành thành đóng. Tôi ngồi nhìn mưa, nhìn luôn cái đóng rác đó mà không quét được. Ngồi ngoài hiên ngắm mưa và mấy cái đóng rác một hồi tự nhiên tôi không còn khó chịu nữa. Tôi bật cười một mình, tôi thấy đó là sự sống! Sự sống luân lưu trong cây hồng, trong hoa hồng, lá hồng và cả trong cánh hồng khi rụng xuống. Nếu không có sự sống thì làm gì có hoa hồng cho tôi ngắm, cho tôi uống trà và không có cả cánh hồng rụng cho tôi quét. Sự sống là sự thay đổi, chuyển biến từng giây từng phút. Tôi muốn có hoa hồng để ngắm, để uống trà mà không muốn quét cánh hồng rụng thì tôi thật là vô lý quá đi!

Monet

Monet là thần tượng của tôi. Những bức tranh của Monet đã cho tôi cảm hứng đến nỗi từ một người hoàn toàn không biết gì về hội họa tôi đã bắt đầu vẽ những bức tranh đầu tiên. 

Đã 14 năm nay mỗi lần xem lại tranh Monet thì nguồn cảm xúc vẫn y nguyên như cũ. Lần nào xem lại một bức tranh của Monet cũng là lần đầu tiên đối với tôi. Tôi chưa bao giờ học vẽ nên không biết gì về kỹ thuật hội họa. Mỗi lần bắt đầu vẽ là tôi phải lật sách ra ngắm lại một chút tranh của Monet. Nó cho tôi nguồn cảm hứng, sức mạnh và lòng tự tin. Monet luôn luôn xuất hiện trong những bức tranh của tôi, có thể nói là Monet đã vẽ bằng bàn tay vụng về của tôi. 

Theo tôi, Monet là một họa sư đã lấy cảm hứng từ sự thật vô thường của vũ trụ. Ông nói:“Đối với tôi, một phong cảnh không thể chỉ hiện hữu riêng một mình. Bầu không khí chung quanh và sự thay đổi liên tục của ánh sáng, của thời tiết đã làm cho một phong cảnh trở thành ra sự sống. Với tôi thì chủ đề vẽ không phải là vấn đề. Cái quan trọng là cái gì xảy ra giữa chủ đề được vẽ và người vẽ.“
Nhưng nói như vậy không có nghĩa là chủ đề mất đi tính chất hữu cơ của nó. Vì thời gian, ánh sáng và thời tiết thay đổi không ngừng nên khi Monet cầm cọ, màu và khung đi ra làm việc ngoài thiên nhiên thì ông đã vẽ hàng loạt những bức tranh có cùng một chủ đề trong một lúc và không bao giờ ngừng lại lâu hơn 15 phút ở mỗi bức tranh. Đó là tác phẩm của một họa sư trong sự hài hòa với thiên nhiên.

CGL

Uống trà với Thầy

Sáng nay ngoài trời rất lạnh. Ra ngoài quét lá sồi rụng mà lạnh cứng cả hai bàn tay, lạnh quá nên nước mắt cứ trào ra nhòe nhoẹt. Nhưng nắng rất đẹp, nắng màu vàng anh đổ dài trên ngọn lá bắt đầu vàng úa. Đẹp lắm!

Từ mấy tháng nay mỗi sáng tôi đều ngồi uống trà với Thầy. Thầy và tôi uống trà Long Tỉnh. Thầy trò hạnh phúc lắm! Có điều lạ là từ khi Thầy trở bệnh, tôi lại gần gũi với Thầy hơn nhiều. Mỗi sáng Thầy trò cùng lạy Bụt, cùng ngồi thiền, và cùng uống trà với nhau. Sáng hôm nay cũng vậy, Thầy trò ngồi uống trà Long Tỉnh, hai thầy trò không nói với nhau một lời nào cả. Ly trà của tôi có khắc chữ“trink deinen Tee“, tôi luôn được Thầy nhắc nhở: Uống trà đi con! Ly trà của Thầy có chữ“das ist es“, Thầy nói với tôi: Đây là cái nớ đó con!

Nhưng tôi không có giỏi như vậy đâu. Từ khi nghe tin Thầy bệnh tôi đã chới với lắm rồi, tôi buồn lắm, buồn thật nhiều. Mùa Đông vừa rồi tôi buồn tới nỗi bị trầm cảm luôn. Tôi nhớ Thầy, nhớ những bài pháp thoại trong mùa ACKĐ. Bảy, tám năm nay tôi đã quen với những mùa Đông ngồi chép pháp thoại của Thầy, thật ấm áp, thật bình an, thật hạnh phúc. Thầy trong lòng tôi là một dũng tướng cưỡi con bạch mã cầm gươm xông vào trận chiến, trận chiến“đập cho tan tành đi huyễn tượng“. Bây giờ Thầy không nói pháp thoại nữa, Thầy không tự một mình đi trên những con đường huyền thoại nữa. Tôi buồn tới tê liệt luôn. Như Thầy đã dạy trong các bài pháp thoại: tôi có một pháp thân ốm yếu, èo uột.

Nhưng rồi thì dù sao tôi cũng vẫn là học trò của Thầy, tuy là dở ẹc nhưng vẫn là học trò của Thầy. Tôi phải tự cứu mình và đồng thời cũng cứu luôn Thầy của tôi. Mỗi buổi sáng tôi thắp hương trước bàn thờ Bụt và lạy xuống ba lạy. Trong ba lạy đó tôi thực tập trở về với hơi thở, nhìn cho kỹ để tìm thấy tôi, tìm thấy tổ tiên huyết thống, tổ tiên tâm linh và Thầy trong tôi. Ngồi thiền trong 10 phút tôi áp dụng những gì tôi đã ghi chép trong suốt 7, 8 năm qua:

Để thầy thở, để thầy ngồi
Mình khỏi thở, mình khỏi ngồi

Thầy đang thở, thầy đang ngồi
Mình đang thở, mình đang ngồi

Thầy là thở, thầy là ngồi
Mình là thở, mình là ngồi

Chỉ có thở, chỉ có ngồi
Không người thở, không người ngồi

An khi thở, lạc khi ngồi
An là thở, lạc là ngồi

Rồi tôi mời Thầy cùng uống trà với tôi. Hai thầy trò uống trà Long Tỉnh. Tôi thực tập như vậy trong mấy tháng qua, tại vì chỉ có như vậy thì tôi mới xứng đáng với tình thương của Thầy. Và bây giờ tôi đã khá lắm rồi. Tôi cảm thấy gần gũi với Thầy hơn xưa. Tôi bớt buồn nhiều lắm vì tôi biết lúc nào Thầy cũng đang ở cạnh bên tôi, Thầy đang ở trong tôi.

CGL viết trong ngày tiếp nối của Thầy 11.10.2015